Trong Thiếu Lâm Quyền có 3 hệ thống quyền thuật biểu hiện theo những kỹ thuật đặc trưng:
Đặc trưng của hệ quyền thuật này là các thế tấn thấp và di chuyển rất nhanh và kín đáo (khép kín hai đầu gối), các chiêu thức thủ pháp thì gọn gàng, tiết kiệm động tác, có đủ đòn chân (cước pháp) và đòn tay (thủ pháp), thế quyền nhanh thoăn thoắt, công thủ linh hoạt biến hóa với kỹ thuật thủ pháp (đòn tay) chủ yếu là Liên Hoa Thủ (tay nở như hình hoa sen) và Cầm Nã Thủ (Tiểu Cầm Nã Thủ Pháp: Hầu Thủ và Đại Cầm Nã Thủ Pháp: Xà Hình Thủ Pháp). Do vậy ở Quyền thuật ở Thiếu Lâm tự Tung Sơn Hà Nam (Trung Quốc) không có sự phân biệt Nam Quyền Bắc Cước.
Đây là hệ thống quyền thuật do võ sư Đoàn Tâm Ảnh thuộc hệ phái Thiếu Lâm Côn Luân sáng tạo ra đã được phổ biến tại Sài Gòn vào những năm của thập kỷ 1960 và 1970 và chưa được Thiếu Lâm tự Tung Sơn nạp vào danh sách hệ thống (xem Thập Bát La Hán Quyền của Lạc Việt trong mục Sách Tham Khảo dưới bài Thiếu Lâm Hồng Gia) vì Thiếu Lâm tự Tung Sơn có thời gian bị cấm hoạt động trong thời kỳ Cách Mạng Văn Hóa của Trung Quốc vào thập kỷ 1960 và không có liên lạc gì với bên ngoài.
Khái niệm Trường Quyền không nên lẫn lộn với khái niệm Trường Kiều của các dòng Nam Quyền Thiếu Lâm ám chỉ lối đánh chuyên dùng các đòn tay rộng và dài với các bộ tấn rộng nên trong Nam Quyền Thiếu Lâm thường có câu Ổn Mã Ngạnh Kiều, Trường Kiều Đại Mã, Đoản Kiều Tiểu Mã nghĩa là ngựa vững cầu cứng, ngựa lớn cầu dài, ngựa nhỏ cầu ngắn (bộ tấn vững vàng kiều thủ chắc chắn, đánh xa thì bộ tấn rộng đòn tay dài, đánh gần thì bộ tấn hẹp đòn tay ngắn) (xem Nam Quyền Toàn Thư, nguyên tác Trung Văn Quyền sư Trương Tuấn Mẫn, dịch giả Thiên Tường, nhà xuất bản Mũi Cà Mau tháng 1/2004).
Trong bộ môn Wushu có 3 bài Trường Quyền 1-2-3 (Long Fists 1-2-3 hay Chang Quan 1-2-3) tập trung những tinh hoa của quyền thuật Bắc Thiếu Lâm (Northern Shaolin) mà ta có thể thấy rất rõ ràng.
Ngoài Ngũ Đại Danh Gia Quyền Thuật Nam Thiếu Lâm Phúc Kiến là Hồng, Lưu, Lý, Mạc, Thái còn có các hệ phái Nam Quyền khác cũng có nguồn gốc từ Nam Thiếu Lâm như Thiếu Lâm Bạch Mi (Shaolin Pak Mei), Thiếu Lâm Phật Gia Quyền (Shaolin Fut Gar Kuen), Thiếu Lâm Chung Ngoại Châu Gia (Shaolin Chung Oi Jow Gar), Thiếu Lâm Vịnh Xuân Quyền (Shaolin Wing Sun Kuen), Nam Thiếu Lâm Bạch Hạc Quyền (Southern Shaolin White Crance Fist), Nam Thiếu Lâm Quý Châu Quyền, Nam Thiếu Lâm Đường Lang Quyền (Southern Shaolin Mantis Fist), ...
Đặc điểm nổi trội của các dòng quyền thuật Nam Thiếu Lâm là thế tấn thấp, không đá cao, thường hay đạp chân (giậm chân) rất mạnh xuống đất và hét lớn (người Trung Hoa gọi là "dĩ thanh trợ lực") giận dữ trợn mắt, rồi vặn eo buông vai phóng quyền với khí thế ào ạt, thế quyền thường di chuyển như cuồng phong bão táp cả hai mặt tấn công lẫn phòng thủ trông rất thô bạo.
Ngay trong các tài liệu do chính các môn đồ Hồng quyền (hay Thiếu Lâm Hồng gia) ở Quảng Đông - Trung Hoa Đại Lục và Hong Kong mà trong tiếng Anh họ dịch là Hung Kuen hay Shaolin Hung Gar cũng nêu rất rõ hai danh từ này chỉ là một mà thôi.
Năm 1949 sau khi Mao Trạch Đông và Đảng Cộng sản Trung Quốc thống nhất Trung Hoa Đại Lục thành nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, các quyền sư danh gia toàn quốc của các hệ phái lớn như Thiếu Lâm, Võ Đang, Thái Cực Quyền đã được triệu tập để thống nhất thành một bộ môn võ thuật mang tính quốc gia và gọi chung là VÕ THUẬT mà tiếng phổ thông gọi là Wushu.
Khi dùng danh từ VÕ THUẬT (Martial Art) chúng ta nên lưu ý rằng khái niệm này bao hàm vừa võ tay không (tay chân hay quyền cước) và cả binh khí. Còn danh từ QUYỀN THUẬT (Boxing, Fist) chỉ dùng cho các bộ môn quyền thuật chỉ sử dụng tay chân (quyền cước) và không sử dụng bất kỳ loại binh khí hay khí giới nào cả.
Theo thống kê toàn Trung Quốc của Viện Nghiên cứu Võ thuật Trung ương Bắc Kinh, tất cả các phái võ có nguồn gốc từ Thiếu Lâm Tự và ngay cả tại Thiếu Lâm Tự (Tung Sơn Hà Nam) có tất cả trên 500 bài quyền Thiếu Lâm, một con số đồ sộ khổng lồ và không ai có thể học hết được cả đời.
- Quyền Pháp Thiếu Lâm Tung Sơn Hà Nam:
- La Hán Thập Bát Thủ
- La Hán Quyền
- Tiểu La Hán Quyền
- Đại La Hán Quyền
- Tiểu Hồng Quyền
- Đại Hồng Quyền
- Thông Tý Quyền
- Triều Dương Quyền
- Thất Tinh Quyền
- Ngũ Lộ Mai Hoa Quyền
- Liên Hoa Quyền
- Pháo Chùy hay Pháp Trùy (Pháo Quyền)
- Tâm Ý Bả
- Tâm Ý Quyền
- Ngũ Hợp Quyền
- Khán Gia Quyền
- Ngũ Hình Quyền (Long, Xà, Hổ, Báo, Hạc)
- Thái Tổ Trường Quyền
- Kim Cương Quyền
- ... ...
- Bắc Thiếu Lâm:
- Mê Tung Quyền
- Nhị Lang Quyền
- Thông Bối Quyền
- Phách Quải Quyền
- Phiên Tử Quyền
- Quan Đông Quyền
- Tra Quyền hay Soa Quyền
- Đàm Thoái Quyền hay Đàn Thoái Quyền
- Bát Cực Quyền
- Đường Lang Quyền Bắc Thiếu Lâm
- Ưng Trảo Quyền
- Pháo Quyền
- Hình Ý Quyền hay Lục Hợp Quyền của Thiếu Lâm Vy Đà Môn
- Hoa Quyền hay Hóa Quyền của vua Khang Hy nhà Thanh sáng tạo
- Địa Đàng Quyền
- Binh Bộ Quyền của các võ quan thời nhà Minh sáng tạo
- ...
- Nam Thiếu Lâm:
- Thiếu Lâm Hồng gia
- Lưu Gia
- Lý Gia
- Mạc Gia
- Thái Gia
- Thiếu Lâm Bạch Mi
- Thiếu Lâm Vịnh Xuân
- Thiếu Lâm Phật Gia Quyền
- Thiếu Lâm Chung Ngoại Châu Gia.
- Thiếu Lâm Đường Lang Quyền Nam Phái
- Thiếu Lâm Bạch Hạc Quyền
- Thiếu Lâm Quý Châu Quyền
- ...
Thiếu Lâm Quyền Tung Sơn Hà Nam
Thiếu Lâm quyền Tung Sơn Hà Nam (Trung Quốc) là nơi xuất phát ra võ thuật Thiếu Lâm Nguyên Thủy tại Thiếu Lâm tự ở huyện Đăng Phong, tỉnh Hà Nam.Đặc trưng của hệ quyền thuật này là các thế tấn thấp và di chuyển rất nhanh và kín đáo (khép kín hai đầu gối), các chiêu thức thủ pháp thì gọn gàng, tiết kiệm động tác, có đủ đòn chân (cước pháp) và đòn tay (thủ pháp), thế quyền nhanh thoăn thoắt, công thủ linh hoạt biến hóa với kỹ thuật thủ pháp (đòn tay) chủ yếu là Liên Hoa Thủ (tay nở như hình hoa sen) và Cầm Nã Thủ (Tiểu Cầm Nã Thủ Pháp: Hầu Thủ và Đại Cầm Nã Thủ Pháp: Xà Hình Thủ Pháp). Do vậy ở Quyền thuật ở Thiếu Lâm tự Tung Sơn Hà Nam (Trung Quốc) không có sự phân biệt Nam Quyền Bắc Cước.
- Các bài quyền của hệ quyền Thiếu Lâm Tung Sơn Hà Nam: La Hán Thập Bát Thủ (Shaolin 18 Arhat Form), Tiểu Hồng Quyền (Xiao Hong Quan), Đại Hồng Quyền (Da Hong Quan), Thái Tổ Trường Quyền (Tai Zhu Chang Quan) của Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn, Kim Cương Quyền (Jin Kang Quan), Triều Dương Quyền (Chao Yang Quan), Tâm Ý Bã, Tâm Ý Quyền, Pháo Trùy (Pao Chui), Thất Tinh Quyền, Thông Tý Quyền, Ngũ Hợp Quyền, Khán Gia Quyền, Tiểu La Hán Quyền (Xiao Lohan Quan), Đại La Hán Quyền (Da Lohan Quan), La Hán Quyền (Luohan Quan), Ngũ Lộ Mai Hoa Quyền (Ng Lo Mui Fa Kuen) (còn gọi là Mai Hoa Phong Vũ Quyền), Liên Hoa Quyền (Lin Fa Kuen), Ngũ Hình Quyền Nguyên Thủy (Long-Xà-Hổ-Báo-Hạc) do Bạch Ngọc Phong sáng tác (bài này nghe nói đã thất truyền), ...
- Vài điểm dẫn xuất
Đây là hệ thống quyền thuật do võ sư Đoàn Tâm Ảnh thuộc hệ phái Thiếu Lâm Côn Luân sáng tạo ra đã được phổ biến tại Sài Gòn vào những năm của thập kỷ 1960 và 1970 và chưa được Thiếu Lâm tự Tung Sơn nạp vào danh sách hệ thống (xem Thập Bát La Hán Quyền của Lạc Việt trong mục Sách Tham Khảo dưới bài Thiếu Lâm Hồng Gia) vì Thiếu Lâm tự Tung Sơn có thời gian bị cấm hoạt động trong thời kỳ Cách Mạng Văn Hóa của Trung Quốc vào thập kỷ 1960 và không có liên lạc gì với bên ngoài.
Thiếu Lâm Quyền Bắc Phái Bàn Sơn Hà Bắc,Sơn Đông
Thiếu Lâm quyền Bắc Phái Bàn Sơn Hà Bắc - Sơn Đông: các động tác quyền thuật lả lướt, công thủ từ xa, dùng đòn chân nhiều hơn đòn tay nên gọi là Bắc Cước Thiếu Lâm, nhảy cao đá lẹ, bộ pháp chạy nhảy nhiều và di chuyển nhanh, đòn tay (thủ pháp) và đòn chân (cước pháp) tay liền tay, chân liền chân trông như mưa sa sấm chớp liên tục không ngừng.- Các bài quyền nổi tiếng của Bắc Thiếu Lâm: Mê Tung Quyền (còn gọi là Yến Thanh Quyền) của cha con Hoắc Nguyên Giáp (Mê Tung có nghĩa là những bước chân kỳ ảo), Nhị Lang Quyền, Tra Quyền (hay Soa Quyền), Đàn Thoái Quyền, Bát Cực Quyền, Phiên Tử Quyền, Thông Tý Quyền (hay Thông Bối Quyền) (Tong Bei Quan), Phách Quải Quyền, Pháo Quyền (Canon Fists hay Canon Form), Đường Lang Quyền (Mantis Form, Mantis Fist), Hình Ý Quyền, Hoa Quyền (Fa Kuen), Địa Đàng Quyền, Binh Bộ Quyền, Quan Đông Quyền, và Ưng Trảo Quyền (Eagle Form, Eagle Fist), ... Các bộ môn quyền thuật của Bắc Thiếu Lâm được gọi bằng một tên chung là Trường Quyền.
Khái niệm Trường Quyền không nên lẫn lộn với khái niệm Trường Kiều của các dòng Nam Quyền Thiếu Lâm ám chỉ lối đánh chuyên dùng các đòn tay rộng và dài với các bộ tấn rộng nên trong Nam Quyền Thiếu Lâm thường có câu Ổn Mã Ngạnh Kiều, Trường Kiều Đại Mã, Đoản Kiều Tiểu Mã nghĩa là ngựa vững cầu cứng, ngựa lớn cầu dài, ngựa nhỏ cầu ngắn (bộ tấn vững vàng kiều thủ chắc chắn, đánh xa thì bộ tấn rộng đòn tay dài, đánh gần thì bộ tấn hẹp đòn tay ngắn) (xem Nam Quyền Toàn Thư, nguyên tác Trung Văn Quyền sư Trương Tuấn Mẫn, dịch giả Thiên Tường, nhà xuất bản Mũi Cà Mau tháng 1/2004).
Trong bộ môn Wushu có 3 bài Trường Quyền 1-2-3 (Long Fists 1-2-3 hay Chang Quan 1-2-3) tập trung những tinh hoa của quyền thuật Bắc Thiếu Lâm (Northern Shaolin) mà ta có thể thấy rất rõ ràng.
Thiếu Lâm Quyền Nam Phái Toàn Châu Phúc Kiến
Thiếu Lâm quyền Nam Phái Toàn Châu Phúc Kiến: các động tác quyền thuật chủ về cương quyền nhiều hơn với những chiêu thức thủ pháp dũng mãnh mà dấu vết của nó hiện nay có thể thấy được qua các hệ thống thi triển quyền pháp (tiếng Nhật gọi là Kata) của môn võ Karaté có nguồn gốc từ Thiếu Lâm Nam Quyền Phúc Kiến (võ Karaté được truyền vào Nhật Bản qua hòn đảo Okinawa bởi các thương nhân người Phúc Kiến).Ngoài Ngũ Đại Danh Gia Quyền Thuật Nam Thiếu Lâm Phúc Kiến là Hồng, Lưu, Lý, Mạc, Thái còn có các hệ phái Nam Quyền khác cũng có nguồn gốc từ Nam Thiếu Lâm như Thiếu Lâm Bạch Mi (Shaolin Pak Mei), Thiếu Lâm Phật Gia Quyền (Shaolin Fut Gar Kuen), Thiếu Lâm Chung Ngoại Châu Gia (Shaolin Chung Oi Jow Gar), Thiếu Lâm Vịnh Xuân Quyền (Shaolin Wing Sun Kuen), Nam Thiếu Lâm Bạch Hạc Quyền (Southern Shaolin White Crance Fist), Nam Thiếu Lâm Quý Châu Quyền, Nam Thiếu Lâm Đường Lang Quyền (Southern Shaolin Mantis Fist), ...
Đặc điểm nổi trội của các dòng quyền thuật Nam Thiếu Lâm là thế tấn thấp, không đá cao, thường hay đạp chân (giậm chân) rất mạnh xuống đất và hét lớn (người Trung Hoa gọi là "dĩ thanh trợ lực") giận dữ trợn mắt, rồi vặn eo buông vai phóng quyền với khí thế ào ạt, thế quyền thường di chuyển như cuồng phong bão táp cả hai mặt tấn công lẫn phòng thủ trông rất thô bạo.
- Các bài quyền nổi tiếng của Thiếu Lâm Nam Quyền Phúc Kiến: Kim Cương Quyền (Jin Kang Quan) có nguồn gốc từ Thiếu Lâm Tung Sơn Hà Nam, Cung Tự Phục Hổ Quyền (Kung Ji Fuk Fu Kuen hay Gung Gee Fuk Fu Kuen) do Chí Thiện Thiền Sư sáng tác, Thiết Tuyến Quyền (Tit Sin Kuen) do Thiết Kiều Tam Thiền Sư sáng tác, Hổ Hạc Song Hình Quyền (Fu Hok Seung Ying Kuen) do Hoàng Phi Hồng sáng tác (có người lại nói là do Lương Bác Trù hay Lương Bác Thau là học trò của Hồng Hy Quan và cũng là chồng của sư tổ Thiếu Lâm Vịnh Xuân Quyền (Shaolin Wing Sun) là bà Nghiêm Vịnh Xuân (Vịnh Xuân chứ không phải là Vĩnh Xuân), Ngũ Hình Quyền (Ng Ying Kuen), Thập Hình Quyền (Sap Ying Kuen) là những bài quyền của Hồng quyền Hồng Hy Quan.
Ngay trong các tài liệu do chính các môn đồ Hồng quyền (hay Thiếu Lâm Hồng gia) ở Quảng Đông - Trung Hoa Đại Lục và Hong Kong mà trong tiếng Anh họ dịch là Hung Kuen hay Shaolin Hung Gar cũng nêu rất rõ hai danh từ này chỉ là một mà thôi.
Viện Nghiên cứu Võ thuật Trung Quốc và việc hệ thống hóa Thiếu Lâm Quyền
Hai bức tượng ngay cổng chính đi vào trung tâm huấn luyện võ thuật quốc gia được gọi là Viện Nghiên Cứu Võ Thuật Trung Quốc, nơi đã đào tạo nên Thành Long, Phàn Thiếu Hoàng, Lý Liên Kiệt, Chân Tử Đan, Triệu Văn Trác, Ngô Kinh,...
Khi dùng danh từ VÕ THUẬT (Martial Art) chúng ta nên lưu ý rằng khái niệm này bao hàm vừa võ tay không (tay chân hay quyền cước) và cả binh khí. Còn danh từ QUYỀN THUẬT (Boxing, Fist) chỉ dùng cho các bộ môn quyền thuật chỉ sử dụng tay chân (quyền cước) và không sử dụng bất kỳ loại binh khí hay khí giới nào cả.
Wushu và Thiếu Lâm Quyền
Bộ môn Wushu này đã được hệ thống hóa lại tại một cơ quan chuyên môn có thẩm quyền mang tính quốc gia là Viện Nghiên cứu Võ thuật Trung ương Bắc Kinh. Cách làm này của nhà nước Trung Quốc là noi gương theo Hoắc Nguyên Giáp (1869 - 1910) người đã sáng lập ra Tinh Võ Thể dục Hội tại Thượng Hải đầu thế kỷ 20 với tôn chỉ là "học tập võ thuật để làm tráng kiện thân thể, làm khỏe mạnh giống nòi dân tộc, nâng cao thể lực để làm cơ sở rèn luyện trí lực dân tộc, không để ngoại bang phương Tây uy hiếp". Do đó sau này, tại khắp vùng Đông Nam Á, nơi nào có cộng đồng người Hoa là nơi đó có sân vận động của Tinh Võ Thể dục Hội, như ở Việt Nam tại Sài Gòn - quận 5 trên đường Nguyễn Trãi có Sân Tinh Võ Quận 5 của người Hoa.- Hai sự kiện lịch sử quan trọng của võ thuật Trung Quốc:
- Tinh Võ Thể Dục Hội của Hoắc Nguyên Giáp (1869 - 1910) thành lập vào năm 1909 tại Thượng Hải, Trung Quốc vào cuối triều nhà Thanh.
- Trung Ương Quốc Thuật Quán thành lập vào năm 1928 tại Nam Kinh do các võ sư miền Bắc Trung Hoa thành lập và tự xưng là Thiếu Lâm Quyền dưới thời Trung Hoa Dân Quốc do Quốc Dân Đảng Trung Hoa của Tôn Dật Tiên nắm chính quyền.
- Võ Thuật Trung Hoa và điện ảnh Các diễn viên võ thuật nổi tiếng của Trung Quốc như Lý Liên Kiệt (Jet Li), Triệu Văn Trác, Chân Tử Đan (hay Chung Tử Đơn) chuyên đóng phim về các danh thủ quyền thuật Thiếu Lâm đều xuất thân học từ Viện Nghiên Cứu Võ Thuật Trung Quốc này cả (Lý Liên Kiệt đã đoạt giải hạng nhì toàn quốc bộ môn Wushu năm mười lăm tuổi (năm 1978) tại Bắc Kinh trong kỹ thuật Trường Quyền.)
Kỹ thuật đặc trưng của Wushu
Kỹ Thuật của Wushu về mặt quyền thuật gồm ba loại quyền: Thiếu Lâm quyền, Võ Đang quyền, và Thái Cực quyền của làng Trần Gia Câu ở Hà Nam.- Thiếu Lâm quyền gồm hai dạng bài quyền là bài Trường Quyền (Chang Quan) (tập trung các đặc trưng của Thiếu Lâm quyền bắc phái) và bài Nam Quyền (Nan Quan) (tập trung các đặc trưng của Thiếu Lâm quyền nam phái mà chủ yếu là kỹ thuật Trường kiều đại mã trong Hồng quyền Hồng Hy Quan);
- Võ Đang quyền gồm Bát Quái chưởng (Bagua Zhang) của phái Võ Đang; và cuối cùng là
- Thái Cực quyền Trần Gia Câu Hà Nam gồm Thái Cực quyền của Trần Vương Đình sáng tác tại làng Trần Gia Câu ở huyện Đăng Phong, tỉnh Hà Nam cách chùa Thiếu Lâm Tung Sơn khoảng 50-70 km.
Theo thống kê toàn Trung Quốc của Viện Nghiên cứu Võ thuật Trung ương Bắc Kinh, tất cả các phái võ có nguồn gốc từ Thiếu Lâm Tự và ngay cả tại Thiếu Lâm Tự (Tung Sơn Hà Nam) có tất cả trên 500 bài quyền Thiếu Lâm, một con số đồ sộ khổng lồ và không ai có thể học hết được cả đời.