Thứ Tư, 27 tháng 4, 2011

Các hệ phái của Thiếu Lâm Quyền

Trong Thiếu Lâm Quyền có 3 hệ thống quyền thuật biểu hiện theo những kỹ thuật đặc trưng:
  • Quyền Pháp Thiếu Lâm Tung Sơn Hà Nam:
      • La Hán Thập Bát Thủ
      • La Hán Quyền
      • Tiểu La Hán Quyền
      • Đại La Hán Quyền
      • Tiểu Hồng Quyền
      • Đại Hồng Quyền
      • Thông Tý Quyền
      • Triều Dương Quyền
      • Thất Tinh Quyền
      • Ngũ Lộ Mai Hoa Quyền
      • Liên Hoa Quyền
      • Pháo Chùy hay Pháp Trùy (Pháo Quyền)
      • Tâm Ý Bả
      • Tâm Ý Quyền
      • Ngũ Hợp Quyền
      • Khán Gia Quyền
      • Ngũ Hình Quyền (Long, Xà, Hổ, Báo, Hạc)
      • Thái Tổ Trường Quyền
      • Kim Cương Quyền
      • ... ...
  • Bắc Thiếu Lâm:
      • Mê Tung Quyền
      • Nhị Lang Quyền
      • Thông Bối Quyền
      • Phách Quải Quyền
      • Phiên Tử Quyền
      • Quan Đông Quyền
      • Tra Quyền hay Soa Quyền
      • Đàm Thoái Quyền hay Đàn Thoái Quyền
      • Bát Cực Quyền
      • Đường Lang Quyền Bắc Thiếu Lâm
      • Ưng Trảo Quyền
      • Pháo Quyền
      • Hình Ý Quyền hay Lục Hợp Quyền của Thiếu Lâm Vy Đà Môn
      • Hoa Quyền hay Hóa Quyền của vua Khang Hy nhà Thanh sáng tạo
      • Địa Đàng Quyền
      • Binh Bộ Quyền của các võ quan thời nhà Minh sáng tạo
      • ...
  • Nam Thiếu Lâm:
      • Thiếu Lâm Hồng gia
      • Lưu Gia
      • Lý Gia
      • Mạc Gia
      • Thái Gia
      • Thiếu Lâm Bạch Mi
      • Thiếu Lâm Vịnh Xuân
      • Thiếu Lâm Phật Gia Quyền
      • Thiếu Lâm Chung Ngoại Châu Gia.
      • Thiếu Lâm Đường Lang Quyền Nam Phái
      • Thiếu Lâm Bạch Hạc Quyền
      • Thiếu Lâm Quý Châu Quyền
      • ...

Thiếu Lâm Quyền Tung Sơn Hà Nam

Thiếu Lâm quyền Tung Sơn Hà Nam (Trung Quốc) là nơi xuất phát ra võ thuật Thiếu Lâm Nguyên Thủy tại Thiếu Lâm tự ở huyện Đăng Phong, tỉnh Hà Nam.
Đặc trưng của hệ quyền thuật này là các thế tấn thấp và di chuyển rất nhanh và kín đáo (khép kín hai đầu gối), các chiêu thức thủ pháp thì gọn gàng, tiết kiệm động tác, có đủ đòn chân (cước pháp) và đòn tay (thủ pháp), thế quyền nhanh thoăn thoắt, công thủ linh hoạt biến hóa với kỹ thuật thủ pháp (đòn tay) chủ yếu là Liên Hoa Thủ (tay nở như hình hoa sen) và Cầm Nã Thủ (Tiểu Cầm Nã Thủ Pháp: Hầu ThủĐại Cầm Nã Thủ Pháp: Xà Hình Thủ Pháp). Do vậy ở Quyền thuật ở Thiếu Lâm tự Tung Sơn Hà Nam (Trung Quốc) không có sự phân biệt Nam Quyền Bắc Cước.
  • Các bài quyền của hệ quyền Thiếu Lâm Tung Sơn Hà Nam: La Hán Thập Bát Thủ (Shaolin 18 Arhat Form), Tiểu Hồng Quyền (Xiao Hong Quan), Đại Hồng Quyền (Da Hong Quan), Thái Tổ Trường Quyền (Tai Zhu Chang Quan) của Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn, Kim Cương Quyền (Jin Kang Quan), Triều Dương Quyền (Chao Yang Quan), Tâm Ý Bã, Tâm Ý Quyền, Pháo Trùy (Pao Chui), Thất Tinh Quyền, Thông Tý Quyền, Ngũ Hợp Quyền, Khán Gia Quyền, Tiểu La Hán Quyền (Xiao Lohan Quan), Đại La Hán Quyền (Da Lohan Quan), La Hán Quyền (Luohan Quan), Ngũ Lộ Mai Hoa Quyền (Ng Lo Mui Fa Kuen) (còn gọi là Mai Hoa Phong Vũ Quyền), Liên Hoa Quyền (Lin Fa Kuen), Ngũ Hình Quyền Nguyên Thủy (Long-Xà-Hổ-Báo-Hạc) do Bạch Ngọc Phong sáng tác (bài này nghe nói đã thất truyền), ...
Trong bốn bài quyền của Thiếu Lâm Tung Sơn Hà Nam (Trung Quốc): Thái Tổ Trường Quyền, Tiểu Hồng Quyền, Đại Hồng Quyền, La Hán Quyền đã xuất hiện thấp thoáng bóng dáng các động tác Kiều Thủ cơ bản là kỹ thuật đặc trưng trong hệ Nam Quyền Thiếu Lâm Hồng Gia sau này.
  • Vài điểm dẫn xuất
Lưu ý rằng trong các hệ thống quyền thuật Thiếu Lâm không hề có Thập Bát La Hán Quyền.
Đây là hệ thống quyền thuật do võ sư Đoàn Tâm Ảnh thuộc hệ phái Thiếu Lâm Côn Luân sáng tạo ra đã được phổ biến tại Sài Gòn vào những năm của thập kỷ 1960 và 1970 và chưa được Thiếu Lâm tự Tung Sơn nạp vào danh sách hệ thống (xem Thập Bát La Hán Quyền của Lạc Việt trong mục Sách Tham Khảo dưới bài Thiếu Lâm Hồng Gia) vì Thiếu Lâm tự Tung Sơn có thời gian bị cấm hoạt động trong thời kỳ Cách Mạng Văn Hóa của Trung Quốc vào thập kỷ 1960 và không có liên lạc gì với bên ngoài.

Thiếu Lâm Quyền Bắc Phái Bàn Sơn Hà Bắc,Sơn Đông

Thiếu Lâm quyền Bắc Phái Bàn Sơn Hà Bắc - Sơn Đông: các động tác quyền thuật lả lướt, công thủ từ xa, dùng đòn chân nhiều hơn đòn tay nên gọi là Bắc Cước Thiếu Lâm, nhảy cao đá lẹ, bộ pháp chạy nhảy nhiều và di chuyển nhanh, đòn tay (thủ pháp) và đòn chân (cước pháp) tay liền tay, chân liền chân trông như mưa sa sấm chớp liên tục không ngừng.
  • Các bài quyền nổi tiếng của Bắc Thiếu Lâm: Mê Tung Quyền (còn gọi là Yến Thanh Quyền) của cha con Hoắc Nguyên Giáp (Mê Tung có nghĩa là những bước chân kỳ ảo), Nhị Lang Quyền, Tra Quyền (hay Soa Quyền), Đàn Thoái Quyền, Bát Cực Quyền, Phiên Tử Quyền, Thông Tý Quyền (hay Thông Bối Quyền) (Tong Bei Quan), Phách Quải Quyền, Pháo Quyền (Canon Fists hay Canon Form), Đường Lang Quyền (Mantis Form, Mantis Fist), Hình Ý Quyền, Hoa Quyền (Fa Kuen), Địa Đàng Quyền, Binh Bộ Quyền, Quan Đông Quyền, và Ưng Trảo Quyền (Eagle Form, Eagle Fist), ... Các bộ môn quyền thuật của Bắc Thiếu Lâm được gọi bằng một tên chung là Trường Quyền.
Khái niệm Trường Quyền là một khái niệm bao hàm tất cả các loại Bắc Quyền Thiếu Lâm chủ trương lối đánh trường trận (công thủ từ xa) đòi hỏi phải di chuyển nhanh và thân pháp xoay chuyển nhiều nên yêu cầu nguyên tắc là Nhất Thốn Trường, Nhất Thốn Cường có nghĩa là dài thêm một tấc, mạnh thêm một tấc.
Khái niệm Trường Quyền không nên lẫn lộn với khái niệm Trường Kiều của các dòng Nam Quyền Thiếu Lâm ám chỉ lối đánh chuyên dùng các đòn tay rộng và dài với các bộ tấn rộng nên trong Nam Quyền Thiếu Lâm thường có câu Ổn Mã Ngạnh Kiều, Trường Kiều Đại Mã, Đoản Kiều Tiểu Mã nghĩa là ngựa vững cầu cứng, ngựa lớn cầu dài, ngựa nhỏ cầu ngắn (bộ tấn vững vàng kiều thủ chắc chắn, đánh xa thì bộ tấn rộng đòn tay dài, đánh gần thì bộ tấn hẹp đòn tay ngắn) (xem Nam Quyền Toàn Thư, nguyên tác Trung Văn Quyền sư Trương Tuấn Mẫn, dịch giả Thiên Tường, nhà xuất bản Mũi Cà Mau tháng 1/2004).
Trong bộ môn Wushu có 3 bài Trường Quyền 1-2-3 (Long Fists 1-2-3 hay Chang Quan 1-2-3) tập trung những tinh hoa của quyền thuật Bắc Thiếu Lâm (Northern Shaolin) mà ta có thể thấy rất rõ ràng.

Thiếu Lâm Quyền Nam Phái Toàn Châu Phúc Kiến

Thiếu Lâm quyền Nam Phái Toàn Châu Phúc Kiến: các động tác quyền thuật chủ về cương quyền nhiều hơn với những chiêu thức thủ pháp dũng mãnh mà dấu vết của nó hiện nay có thể thấy được qua các hệ thống thi triển quyền pháp (tiếng Nhật gọi là Kata) của môn võ Karaté có nguồn gốc từ Thiếu Lâm Nam Quyền Phúc Kiến (võ Karaté được truyền vào Nhật Bản qua hòn đảo Okinawa bởi các thương nhân người Phúc Kiến).
Ngoài Ngũ Đại Danh Gia Quyền Thuật Nam Thiếu Lâm Phúc Kiến là Hồng, Lưu, Lý, Mạc, Thái còn có các hệ phái Nam Quyền khác cũng có nguồn gốc từ Nam Thiếu Lâm như Thiếu Lâm Bạch Mi (Shaolin Pak Mei), Thiếu Lâm Phật Gia Quyền (Shaolin Fut Gar Kuen), Thiếu Lâm Chung Ngoại Châu Gia (Shaolin Chung Oi Jow Gar), Thiếu Lâm Vịnh Xuân Quyền (Shaolin Wing Sun Kuen), Nam Thiếu Lâm Bạch Hạc Quyền (Southern Shaolin White Crance Fist), Nam Thiếu Lâm Quý Châu Quyền, Nam Thiếu Lâm Đường Lang Quyền (Southern Shaolin Mantis Fist), ...
Đặc điểm nổi trội của các dòng quyền thuật Nam Thiếu Lâm là thế tấn thấp, không đá cao, thường hay đạp chân (giậm chân) rất mạnh xuống đất và hét lớn (người Trung Hoa gọi là "dĩ thanh trợ lực") giận dữ trợn mắt, rồi vặn eo buông vai phóng quyền với khí thế ào ạt, thế quyền thường di chuyển như cuồng phong bão táp cả hai mặt tấn công lẫn phòng thủ trông rất thô bạo.
Nhìn vào 3 bài Nam Quyền 1-2-3 (Nan Quan 1-2-3 hay Shaolin Southern Fist 1-2-3) của Wủshú thấy rất rõ các động tác của Trường Kiều Đại Mã, động tác mổ của Hạc Quyền trong chiêu thức Câu Thủ Hạc Trủy (tay quyền câu lại như mỏ của con hạc đang mổ kiếm ăn), động tác vồ của Hổ Quyền trong tư thế của chiêu Ngọa Hổ Tầm Dương (cọp nằm bắt dê), ...
Ngay trong các tài liệu do chính các môn đồ Hồng quyền (hay Thiếu Lâm Hồng gia) ở Quảng Đông - Trung Hoa Đại Lục và Hong Kong mà trong tiếng Anh họ dịch là Hung Kuen hay Shaolin Hung Gar cũng nêu rất rõ hai danh từ này chỉ là một mà thôi.

Viện Nghiên cứu Võ thuật Trung Quốc và việc hệ thống hóa Thiếu Lâm Quyền

Hai bức tượng ngay cổng chính đi vào trung tâm huấn luyện võ thuật quốc gia được gọi là Viện Nghiên Cứu Võ Thuật Trung Quốc, nơi đã đào tạo nên Thành Long, Phàn Thiếu Hoàng, Lý Liên Kiệt, Chân Tử Đan, Triệu Văn Trác, Ngô Kinh,...
Năm 1949 sau khi Mao Trạch ĐôngĐảng Cộng sản Trung Quốc thống nhất Trung Hoa Đại Lục thành nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, các quyền sư danh gia toàn quốc của các hệ phái lớn như Thiếu Lâm, Võ Đang, Thái Cực Quyền đã được triệu tập để thống nhất thành một bộ môn võ thuật mang tính quốc gia và gọi chung là VÕ THUẬT mà tiếng phổ thông gọi là Wushu.
Khi dùng danh từ VÕ THUẬT (Martial Art) chúng ta nên lưu ý rằng khái niệm này bao hàm vừa võ tay không (tay chân hay quyền cước) và cả binh khí. Còn danh từ QUYỀN THUẬT (Boxing, Fist) chỉ dùng cho các bộ môn quyền thuật chỉ sử dụng tay chân (quyền cước) và không sử dụng bất kỳ loại binh khí hay khí giới nào cả.

Wushu và Thiếu Lâm Quyền

Bộ môn Wushu này đã được hệ thống hóa lại tại một cơ quan chuyên môn có thẩm quyền mang tính quốc gia là Viện Nghiên cứu Võ thuật Trung ương Bắc Kinh. Cách làm này của nhà nước Trung Quốc là noi gương theo Hoắc Nguyên Giáp (1869 - 1910) người đã sáng lập ra Tinh Võ Thể dục Hội tại Thượng Hải đầu thế kỷ 20 với tôn chỉ là "học tập võ thuật để làm tráng kiện thân thể, làm khỏe mạnh giống nòi dân tộc, nâng cao thể lực để làm cơ sở rèn luyện trí lực dân tộc, không để ngoại bang phương Tây uy hiếp". Do đó sau này, tại khắp vùng Đông Nam Á, nơi nào có cộng đồng người Hoa là nơi đó có sân vận động của Tinh Võ Thể dục Hội, như ở Việt Nam tại Sài Gòn - quận 5 trên đường Nguyễn Trãi có Sân Tinh Võ Quận 5 của người Hoa.
Việc hình thành hai tổ chức võ thuật trên là tiền đề để sau này nhà nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa thành lập Viện Nghiên Cứu Võ Thuật Quốc Gia sau khi Đảng Cộng Sản Trung Quốc thống nhất Trung Hoa vào năm 1949.
  • Võ Thuật Trung Hoa và điện ảnh Các diễn viên võ thuật nổi tiếng của Trung Quốc như Lý Liên Kiệt (Jet Li), Triệu Văn Trác, Chân Tử Đan (hay Chung Tử Đơn) chuyên đóng phim về các danh thủ quyền thuật Thiếu Lâm đều xuất thân học từ Viện Nghiên Cứu Võ Thuật Trung Quốc này cả (Lý Liên Kiệt đã đoạt giải hạng nhì toàn quốc bộ môn Wushu năm mười lăm tuổi (năm 1978) tại Bắc Kinh trong kỹ thuật Trường Quyền.)

Kỹ thuật đặc trưng của Wushu

Kỹ Thuật của Wushu về mặt quyền thuật gồm ba loại quyền: Thiếu Lâm quyền, Võ Đang quyền, và Thái Cực quyền của làng Trần Gia Câu ở Hà Nam.
  • Thiếu Lâm quyền gồm hai dạng bài quyền là bài Trường Quyền (Chang Quan) (tập trung các đặc trưng của Thiếu Lâm quyền bắc phái) và bài Nam Quyền (Nan Quan) (tập trung các đặc trưng của Thiếu Lâm quyền nam phái mà chủ yếu là kỹ thuật Trường kiều đại mã trong Hồng quyền Hồng Hy Quan);
  • Võ Đang quyền gồm Bát Quái chưởng (Bagua Zhang) của phái Võ Đang; và cuối cùng là
  • Thái Cực quyền Trần Gia Câu Hà Nam gồm Thái Cực quyền của Trần Vương Đình sáng tác tại làng Trần Gia Câu ở huyện Đăng Phong, tỉnh Hà Nam cách chùa Thiếu Lâm Tung Sơn khoảng 50-70 km.
Thật ra ở Trung Hoa và ngay trong hệ thống quyền thuật Thiếu Lâm không có sự phân biệt Thiếu Lâm quyềnThiếu Lâm danh gia, đây là thuật ngữ do người đời sau thêm bớt mà thành.
Theo thống kê toàn Trung Quốc của Viện Nghiên cứu Võ thuật Trung ương Bắc Kinh, tất cả các phái võ có nguồn gốc từ Thiếu Lâm Tự và ngay cả tại Thiếu Lâm Tự (Tung Sơn Hà Nam) có tất cả trên 500 bài quyền Thiếu Lâm, một con số đồ sộ khổng lồ và không ai có thể học hết được cả đời.

Hồng Gia quyền (洪家拳)

Còn được gọi là Thiếu Lâm Hồng gia quyền (Shaolin Hung Gar Kuen), hay Hồng quyền (Hung Kuen), Thiếu Lâm Hồng Quyền (Shaolin Hung Kuen) là một hệ phái Võ Thiếu Lâm trong hệ thống võ thuật cổ truyền của Trung Quốc ở miền nam có gốc từ Nam Thiếu Lâm Phúc Kiến chứ không phải của Thiếu Lâm Tung Sơn Hà Nam.

Nguồn gốc

Các danh quyền và danh phái võ thuật trong dân gian ở Trung Hoa thường được lưu truyền rằng đó là những bộ môn quyền thuật tiêu biểu, có tính đặc trưng cho tất cả các môn quyền và võ phái Trung Hoa cổ truyền khác, và nói chung là đều có nguồn gốc từ Thiếu Lâm. Do vậy ở Trung Hoa từ xưa đến nay thường có câu "thiên hạ công phu xuất Thiếu Lâm" nghĩa là "tất cả các bộ môn võ thuật ở Trung Hoa đều có nguồn gốc từ Thiếu Lâm". Thiếu Lâm Hồng gia thuộc Thiếu Lâm Nam Quyền trong hệ phái Võ Thiếu Lâm
Có nhiều giả thiết khác nhau về nguồn gốc Thiếu Lâm Hồng gia.

Hồng Hy Quan

Giả thiết thứ nhất cho rằng: người sáng lập môn phái là Hồng Hy Quan (Chữ Hán: 洪熙官, phiên âm: Hung Hei-Gun)- một đệ tử tục gia của Chí Thiện (至善 - Jee Sin) thiền sư trụ trì tại chùa Nam Thiếu Lâm ở tỉnh Phúc Kiến vào đầu thời kỳ vua Càn Long nhà Thanh (không phải là chùa Thiếu Lâm ở Tung Sơn, huyện Đăng Phong, tỉnh Hà Nam). Sau khi chùa Thiếu Lâm Nam Phái Phúc Kiến theo truyền thuyết bị quan quân nhà Thanh đốt phá, Hồng Hy Quan đã rời chùa Nam Thiếu Lâm trở về thành phố Phật Sơn quê hương ông thuộc tỉnh Quảng Đông và mở võ quán truyền bá Thiếu Lâm quyền. Nhưng để giấu tung tích ông đã gọi môn võ này là Hồng Quyền (Hung Kuen) hay Hồng Gia Quyền (Hung Gar Kuen).
Lục A Thái (Luk A Choy) là truyền nhân của Chí Thiện Thiền Sư và sau này cũng được Chí Thiện Thiền Sư gửi đến Hồng Hy Quan để thụ huấn thêm Thiếu Lâm quyền.
Lục A Thái truyền lại cho Hoàng Thái (Wong Tai), Hoàng Thái truyền lại cho con trai là Hoàng Kỳ Anh (Wong Ky Ying), Hoàng Kỳ Anh truyền lại cho con trai là Hoàng Phi Hồng (Wong Fei Hung - 1840-1933), Hoàng Phi Hồng truyền lại cho Lâm Thế Vinh (Lam Sai Wing - 1850-1943), Lâm Thế Vinh truyền lại cho con trai là Lâm Tổ (Lam Cho - 1910-?) và cháu nội (con của Lâm Tổ) là Lâm Chấn Huy (Lam Chun Fai) sinh năm 1940, Lâm Tổ hiện nay đang sống ở Hồng Kông được 97 tuổi (2007), tất cả các môn đồ Hồng Quyền Hồng Hy Quan ở Quảng Đông và Hoa Kỳ hiện nay đều là học trò của Lâm Thế Vinh và Lâm Tổ.
Lâm Chấn Huy (1940 - ?) hiện nay vẫn còn sống tại Hongkong và là chủ tịch hiệp hội Hồng Gia Quyền Quốc Tế, năm 2004 Lâm Chấn Huy đã có chuyến du lịch sang Nga và các nước trong khối liên bang Nga (SNG) để truyền bá Hồng Gia Quyền.Ông Lâm Chấn Huy đã từng sang Việt Nam và ghé thăm võ sư Nguyễn Quang Dũng chủ nhiệm Võ đường Thiếu Lâm Hồng Gia 220 Hàng Bông thuộc dòng Hồng Gia Quyền Quảng Tây của cụ Tô Tử Quang tại Hà Nội và có chụp hình lưu niệm.
Lâm Thế Vinh đã viết 3 cuốn sách nổi tiếng trình bày bộ quyền thuật của Nam Thiếu Lâm là Cung Tự Phục Hổ quyền, Hổ Hạc Song Hình quyền, Thiết Tuyến quyền được xuất bản tại Hồng Kông vào năm 1920 và được dịch xuất bản ra tiếng Việt vào năm 1973 tại Sài Gòn trước năm 1975 . Họ Lâm còn truyền bá Hồng Gia quyền ra khắp tỉnh Quảng ĐôngHồng Kông, Bắc Mỹ, Anh quốc,...
Thật ra Hồng Gia quyền cũng như Nam Thiếu Lâm có rất nhiều bộ quyền khác 3 bộ quyền trên nhưng ít người biết đến. Do ảnh hưởng của họ Lâm mà Hồng Gia quyền được biết đến nhiều hơn ở bên ngoài Trung Hoa đại lục.

Chu Nguyên Chương

Nhưng với Hồng quyền Thiên Địa Hội thì cho rằng: Hồng Quyền có nguồn gốc từ Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương vì chữ Hồng có nghĩa là Hồng Võ Diên Niên là niên hiệu đầu tiên của vương triều nhà Minh.

Triệu Khuông Dẫn

Còn thuyết khác thì cho rằng Hồng quyền do Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn nằm mơ gặp Tiên Ông dạy cho 36 động tác căn bản Hồng quyền rồi theo đó sáng tạo Thái tổ trường quyền. Sở dĩ gọi là Thái tổ trường quyền là để phân biệt với các bài trường quyền của Wushu.
Nếu quan sát kỹ ta thấy bài Thái tổ trường quyền có rất nhiều động tác, thủ pháp căn bản của Hồng quyền mà sau này các hệ phái Thiếu Lâm Hồng Gia quyền khác đều có trong các hệ thống bài tập sau này.
Bài Tiểu Hồng quyềnĐại Hồng quyền nổi tiếng của chùa Thiếu Lâm Tung Sơn đang được truyền bá hiện nay tại chùa ở Trung Quốc và một số lưu phái Thiếu Lâm ở Việt Nam hiện nay là minh chứng hùng hồn nhất rằng Hồng Quyền xuất phát từ Thiếu Lâm Tung Sơn có trước khi chùa Nam Thiếu Lâm Phúc Kiến ra đời sau này. Do vậy môn Hồng Quyền có trước khi cả Chí Thiện Thiền Sư và Hồng Hy Quan xuất hiện.

Đặc trưng của Quyền Phổ Thiếu Lâm Hồng Gia

Lâm Thế Vinh, học trò của Hoàng Phi Hồng trong chiêu thức Tấn Mã Đầu Tranh Song Hổ Trảo trong bài Cung Tự Phục Hổ quyền của Nam Thiếu Lâm
Thiếu Lâm Hồng gia quyền chủ về cương ngạnh, cận chiến và bám tấn. Hệ thống bài quyền và binh khí rất phong phú, gồm: La Hán Xuất Động, Sư Tử Cổn Cầu, Song Long Xuất Hải, Yến Tử Quy Sào (én bay về tổ), Tiểu Hồng Quyền, Đại Hồng Quyền, Hồng Quyền, Nam Hồng Quyền, Thiết Tuyến Quyền, Hổ Hạc Song Hình Quyền, Cung Tự Phục Hổ Quyền, Dạ Hổ Xuất Lâm, Hắc Hổ Quyền, Hồng Gia Phá Sơn Quyền, Ngũ Hình Quyền (Long-Hổ-Báo-Xà-Hạc), Thập Hình Quyền (Long-Xà-Hổ-Báo-Hạc-Tượng-Hầu-Sư-Mã-Bưu), Kim Hầu Quyền, Ngũ Lang Bát Quái Côn, Bát Quái Côn Đơn Đầu, Lưỡng Đầu Côn, Đơn Đao, Song Đao, Mễ (Ghế Ngựa), Đơn và Song Ngư, Đinh Ba, Côn Tam Khúc, Tiêu, Quạt (Thiết Phiến),...
Hồng quyền xuất phát từ Tống Thái tổ Triệu Khuông Dẫn và Lý Tẩu thì luyện bài Thái tổ Trường quyền, Đại Hồng quyền, Tiểu Hồng quyền,... là những bộ quyền của Thiếu Lâm Tung Sơn Hà Nam. Lý Tẩu vốn là cao thủ môn Hồng Động Thông Bối quyền mà dân gian vùng Hà Bắc (Trung Quốc) thường gọi tắt là Hồng quyền gây ra sự ngộ nhận lầm lẫn sau này với Hồng quyền của Hồng Hi Quan gọi tắt từ chữ Hồng gia quyền.
Hồng quyền của Hồng Hi Quan và Phương Thế Ngọc xuất phát từ Nam Thiếu Lâm Phúc Kiến nên luyện bài xưa nhất của Nam quyền là Cung Tự Phục Hổ quyền, Hổ Hạc Song Hình quyền, Thiết Tuyến quyền, Ngũ Hình quyền (Long, Hổ, Báo, Xà, Hạc), Thập Hình quyền (Long, Xà, Hổ, Báo, Hạc, Sư (tử), Mã, Hầu, Bưu [cọp con]), Hắc Hổ quyền, Phá Sơn quyền,...

Ngũ Hình Quyền

Điểm nổi bật giống nhau giữa các hệ phái Thiếu Lâm Hồng Quyền là hệ thống Ngũ Hình Quyền dựa trên cơ sở các động tác của Long, Xà, Hổ, Báo, Hạc tượng trưng cho Ngũ Hành (Long (Thổ) luyện Thần, Xà (Thủy) luyện Khí, Hổ (Kim) luyện Xương Cốt, Báo (Mộc) luyện Gân, Hạc (Hỏa) luyện Tinh). Cũng có một số hệ phái Hồng quyền không có hệ thống Ngũ Hình Quyền, những hệ phái Hồng quyền này rất ít và không phải là Hồng quyền tiêu biểu.
Ngũ Hình quyền thật ra có nguồn gốc ban đầu từ Thiếu Lâm Tung Sơn Hà Nam vào thời nhà Nguyên do Thu Nguyệt thiền sư, là pháp danh của Bạch Ngọc Phong, sáng tác trên cơ sở phát triển của 173 chiêu thức của La Hán Thập Bát thủ (18 thế tay của phật A La Hán).
Sau này bộ Ngũ Hình quyền này đã truyền vào chùa Nam Thiếu LâmPhúc Kiến, do vậy các phái võ miền Nam Trung Hoa có nguồn gốc từ Nam Thiếu Lâm Phúc Kiến đều có Ngũ Hình quyền, ví dụ như Vịnh Xuân quyền chẳng hạn cũng có bài Ngũ Hình quyền riêng không giống Ngũ Hình quyền của Hồng Gia quyền.
Bài Ngũ Hình quyền của Hồng Gia quyền sau này được phát triển lên thành Thập Hình quyền (Long, Xà, Hổ, Báo, Hạc, Tượng, Mã, Sư, Hầu, Bưu), có nhiều lưu phái Hồng Gia quyền của Hồng Hy Quan đã không còn dạy bài Ngũ Hình nữa mà chỉ còn dạy bài Thập Hình.
Hiện nay nhiều lưu phái Hồng Gia quyền lấy hẳn bài Thập Hình quyền làm đặc trưng quyền pháp vì trong đó đã có bài Ngũ Hình rồi.
Bạch Mi quyền của Bạch Mi đạo nhân sau này cũng được sáng tác trên cơ sở Hổ hình quyền và Báo hình quyền của Ngũ Hình quyền của Thiếu Lâm Tung Sơn Hà Nam.

Kiều thủ

Tuy rằng các hệ Hồng Quyền có chung đặc trưng là Ngũ Hình Quyền (Long, Xà, Hổ, Báo, Hạc) nhưng để phân biệt Hồng Quyền của Hồng Hi Quan đó là kĩ thuật Kiều Thủ chia thủ pháp (đòn tay) làm 3 tiết đoạn: cổ tay, từ cổ tay đến cùi chỏ, từ cùi chỏ đến vai, và lối đánh phổ biến là kĩ thuật Trường Kiều (cánh tay thẳng dài và nắm thành quyền) đong đưa hai bên vai và hông như đòn gánh và đứng tấn Đại Mã tức thế tấn rộng và thấp.
Chí Thiện Thiền Sư và Hồng Hi Quan là người đã phát kiến và sáng tạo ra lối đánh Trường Kiều độc đáo và Kĩ Thuật Trường Kiều sau này đã trở nên rất thịnh hành trong các môn quyền thuật của Thiếu Lâm Trung Ngoại Chu Gia, Thiếu Lâm Thái GiaThái Lý Phật, Thiếu Lâm Phật Gia Quyền của các vị Lạt MaTây Tạng, đặc biệt là trong bài Nam Quyền của bộ môn Wushu hiện đại của Trung Quốc hiện nay.
Kĩ Thuật Trường Kiều (người Quảng Đông còn gọi là Phao Quyền) đứng tấn Đại Mã (bộ tấn rộng) là kĩ thuật rất đặc trưng trong bài Cung Tự Phục Hổ Quyền, Hổ Hạc Song Hình Quyền, Ngũ Hình Quyền (Long, Hổ, Báo, Xà, Hạc), Thập Hình Quyền (Long, Xà, Hổ, Báo, Hạc, Tượng, Sư, Hầu, Mã, Bưu) Bưu là con cọp (hổ) con, Hắc Hổ Quyền của Thiếu Lâm Hồng Quyền và Tiểu Phục Hổ Quyền, Đại Phục Hổ Quyền của Thiếu Lâm Trung Ngoại Chu Gia,...
Bất cứ ai đã học Hồng Quyền Hồng Hi Quan đều biết kĩ thuật Trường Kiều Đại Mã là sở trường của lưu phái này chuyên chủ cương trong khi các hệ Hồng Quyền khác thường đánh đoản kiều (đòn tay ngắn) và chủ về cương nhu nhập nội (cận chiến).

Triệt Quyền Đạo và Nam Quyền Thiếu Lâm Hồng Gia

Chiến thuật Tầm kiều - Phá mã là một chiến thuật phổ biến trong tất cả các hệ phái Nam Quyền Thiếu Lâm từ Hồng Gia quyền cho đến Bạch Mi quyền, Vịnh Xuân quyền, Phật Gia quyền, Trung Ngoại Chu Gia, Thái Gia quyền. Triệt Quyền Đạo của Lý Tiểu Long cũng phát triển trên nguyên lí này thành 2 nguyên lí căn bản của Triệt Quyền Đạo:
  1. Triệt Đầu Quyền: ngăn chặn đòn của đối phương ngay từ trong gốc trước khi phóng ra đến mục tiêu trên người ta (nên mới gọi là Triệt Đầu Quyền, Triệt có nghĩa là ngăn chặn khi quyền đối phương mới khởi phát).
  2. Tiếp Vĩ Quyền: đối phương vừa dứt đòn hết tầm ngay lập tức ta xuất thủ tiếp quyền đối phương (nên mới gọi là Tiếp Vĩ, là cái đuôi, ý nghĩa là như vậy).
Chữ Kiều có nghĩa là Cái Cầu, ở đây chỉ khoảng cách đo lường giữa ta và đối phương.
Tuy nhiên có một đặc điểm trong kĩ thuật quyền pháp của Trung Hoa rằng khái niệm Kiều có nghĩa là Điếu Kiều tức là cái cầu ở cửa thành ngày xưa hạ xuống cho người ra vào, nên khi muốn tấn công đối phương nghĩa là trước khi Công Thành ta phải phá Cửa Thành (Phá Kiều) rồi mới xông vào Thành, tức là đánh gẫy (triệt hạ) tay chân (quyền cước) đối phương trước rồi mới công thành.
Xét cho cùng Triệt Quyền Đạo của Lý Tiểu Long không phải là mới mẻ gì mà chỉ là sự phát triển trên cơ sở các Nguyên Lí Quyền Kĩ Nam Thiếu Lâm Hồng GiaThiếu Lâm Vịnh Xuân quyền.
Nhưng sự sáng tạo của Lý Tiểu Long ở chỗ là Lý nhấn mạnh đến tính đơn giản, trực tiếp và phi cổ điển.
Nghĩa là phải chăng Lý đã chối bỏ mọi Hình Thái Quyền Pháp Thiếu Lâm để tiến đến Nguyên lí Vô chiêu thắng Hữu chiêu?
Thật ra không phải như vậy.
Lý muốn nói rằng mọi Nguyên lí Triết học Trung Hoa trong Võ Thuật như Âm - Dương, Cương - Nhu, Hư - Thực, Động - Tĩnh và các hình thái quyền pháp (tức là những Chiêu thức, Chiêu số) chỉ là lột tả cái ý niệm sống động nào đó của quyền thuật. Các ý niệm quyền thuật này thể hiện ở ngay tên của các chiêu thức quyền pháp trong bài quyền theo cách tư duy tượng hình (mô phỏng) có tính ví von và so sánh bằng hình ảnh của người xưa.
Chẳng hạn ở tư thế Trung Bình Tấn (Hồng quyền Hồng Hi Quan gọi là Tứ Bình Bát Phân) một tay quyền để ở hông còn tay kia xuất quyền đánh thẳng ngang về phía một bên hông của tay đó có tên là Hoa Vinh xạ tiễn ám chỉ động tác tay vung quyền tấn công tựa như dang cánh cung về một bên, trong khi tay còn lại nằm ở hông giống như đang nắm mũi tên kéo về sắp sửa bật dây cung bắn ra, còn Hoa Vinh là tên của một trong 108 anh hùng Lương Sơn Bạc trong tiểu thuyết Thủy Hử của Thi Nại Am. Hoặc chiêu thức Ngọa Hổ Tầm Dương (cọp nằm bắt dê) chẳng hạn. Còn nếu như hai tay nắm thành quyền nằm ở hai bên hông thì gọi là Nhị Hổ Tiềm Tung (như hai con cọp nằm hai bên cổng) hay Long Tàng Hổ Phục (rồng và cọp nằm hai bên chờ thời xuất công)...
Do vậy Lý đã đưa ra khái niệm Triết học vận động trong võ thuật có nghĩa là giữa các hình thái quyền pháp - tức là các chiêu thức - luôn có sự biến hóa có thể không theo một trình tự nhất định nào để trở thành một khuôn vàng thước ngọc mà tùy theo khả năng ứng biến theo tình thế của người luyện tập và trong khi chiến đấu ngoài đời thật sự. Đó là tư tưởng "Không câu chấp, không câu nệ và vạn pháp hư không" trong thuyết lí Thiền Tông Phật Giáo Trung Hoa.
Và Lý đã đi đến kết luận Học nguyên tắc rồi giải trừ nguyên tắc, nghĩa là qua sông rồi thì nên để lại Thuyền mới đi tiếp được, nếu cứ câu nệ vào phương pháp tức là quá quan tâm đến hình thức mà không hướng đến nội dung thì Tâm Pháp bị vướng bận, năng lực bị giam hãm và không được giải phóng thì cho dù có tập luyện quyền thuật lâu ngày cũng không có kết quả gì.
Như vậy người mới học quyền thuật rất cần các Hình thái Quyền pháp căn bản, đến khi tinh luyện rồi thì thiên biến vạn hóa, từ chỗ có chiêu số đi đến chỗ không có chiêu số nghĩa là Vô ảnh quyền, vô ảnh cước, mọi cử động bất kỳ của thân thể cũng có thể trở thành chiêu thức phòng thủ, tấn công hay phản công đối phương hữu hiệu.

Các Lưu phái Thiếu Lâm Hồng gia

Hoàng Phi Hồng, Chân sư Hồng Gia quyền Quảng Đông vào cuối nhà Thanh.
Các dòng quyền thuật Thiếu Lâm Hồng Gia có rất nhiều và các hệ thống bài tập của các hệ Hồng Quyền này thậm chí khác nhau hoàn toàn. Có thể kể ra một số lưu phái Hồng Quyền đang thịnh hành tại Trung Hoa Đại Lục và ngoài Trung Hoa Đại Lục như sau :
  • Hồng quyền Quảng Đông của Hoàng Phi Hồng bắt đầu từ Lục A Thái (sư đệ của Hồng Hi Quan) truyền đến Lâm Thế Vinh. Lâm Thế Vinh là người có công quảng bá Hồng Quyền Hồng Hi Quan ra khắp tỉnh Quảng Đông đến Hồng Kông và Hoa Kỳ. Nhờ có Lâm Thế Vinh viết 3 cuốn sách Cung Tự Phục Hổ Quyền, Thiết Tuyến Quyền, và Hổ Hạc Song Hình Quyền mà người ta thường nói đó là quyền kỹ Hồng Hi Quan.
  1. Hồng quyền Quảng Đông còn có Hồng Quyền của Phương Thế Ngọc nổi danh với Ngũ Hình Quyền (Long, Xà, Hổ, Báo, Hạc) khác với Ngũ Hình Quyền của Hồng Hy Quan là Long, Hổ, Báo, Xà, Hạc. Hồng Quyền của Phương Thế Ngọc học từ mẹ là Miêu Thúy Hoa, Miêu Thúy Hoa học từ cha là Miêu Hiển.
Hồng quyền Quảng Đông chính là nguồn gốc của các bài Nam quyền của Wushu hiện đại Trung Quốc ngày nay.
Khi chùa Nam Thiếu Lâm ở Toàn Châu tỉnh Phúc Kiến bị hỏa thiêu dưới bàn tay tàn bạo của quan quân nhà Thanh, có 5 người đệ tử cuối cùng xuất sắc nhất của Thiếu Lâm Nam Phái Phúc Kiến (do vị Phương Trượng trụ trì lúc đó là Hồng Mi Sư Tổ - là một trong những vị tiền bối xuất sắc sáng lập ra Nam Quyền Thiếu Lâm - truyền dạy) trốn khỏi chùa.
5 người đó là : Chí Thiện Thiền Sư, Ngũ Mai lão ni (Ngũ Mai Sư Thái) (sau này là sư phụ của Nghiêm Vịnh Xuân - người đã sáng tạo ra Thiếu Lâm Vịnh Xuân Phật Sơn sau này), Bạch Mi Đạo Nhân (gọi là đạo nhân vì ông này sau đó bỏ Phật Gia đi theo Đạo Gia) - Bạch Mi chính là người sáng tạo ra dòng Nam Quyền nổi tiếng ngang ngửa Hồng Quyền Hồng Hy Quan là dòng Thiếu Lâm Bạch Mi với lối đánh đoản kiều phát kình trong tầm ngắn cực kỳ dũng mãnh và tàn khốc, người thứ tư là Phùng Đạo Đức (sau này làm quan cho nhà Thanh), và người thứ năm chính là Miêu Hiển và cũng chính là ông ngoại của Phương Thế Ngọc.
Chùa Nam Thiếu Lâm ở thành phố Toàn Châu, tỉnh Phúc Kiến bị thiêu hủy 2 lần chính yếu: lần thứ nhất là vào năm Ung Chính thứ 2 tức năm 1723 Tây lịch do Ung Chính đế ra lệnh, sau đó Chí Thiện Thiền Sư đã tìm cách xây lại, lần thứ hai và cũng là lần sau cùng bị thiêu hủy tận diệt là vào năm Càn Long thứ 28 tức năm 1763 do Càn Long đế ra lệnh và cấm tiệt xây dựng lại vĩnh viễn do vậy sự kiện này đã là mầm mống cho các phái võ miền Nam Trung Hoa sau này xuất hiện như: Bạch Hạc quyền tại địa hạt Vĩnh Xuân thuộc tỉnh Phúc Kiến, Bạch Mi quyền tại thành phố Quảng Châu thuộc tỉnh Quảng Đông, Vịnh Xuân quyền tại thành phố Phật Sơn thuộc tỉnh Quảng Đông, Hồng Gia quyền của Hồng Hy Quan tại khắp tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Bạch Hổ Phái của Phùng Đạo Đức, Thiếu Lâm Thái Gia của Thái Phúc (蔡褔) và Thái Cửu Nghi (蔡九儀), Thiếu Lâm Lưu gia của Lưu Tam Nhãn (劉三眼), Thiếu Lâm Lý gia của Lý Hữu Sơn (李友山), Thiếu Lâm Mạc gia của Mạc Thanh Kiều (莫清矯) là nữ nhân, Thái Lý Phật của Trần Hưởng (陳享) ở Tân Hội (新會) tỉnh Quảng Đông, Thiếu Lâm Trung Ngoại Chu Gia quyền của Chu Long (周龍) cũng tại Tân Hội tỉnh Quảng Đông cùng 4 người em ruột là Chu Hiệp (周協), Chu Hải (周海), Chu Điền (周田), Chu Bưu (周彪), Thiếu Lâm Phật gia quyền ở Vân Nam và Quảng Đông,...
Trên thực tế võ Thiếu Lâm nguyên thủy có nguồn gốc từ Tung Sơn thuộc huyện Đăng Phong, tỉnh Hà Nam mới là chính thống khởi nguyên võ công Thiếu Lâm và không hề có tục lệ nhận đệ tử tục gia vào chùa truyền võ rồi cho rời chùa xuống núi, hành động này chỉ có ở chùa Nam Thiếu Lâm Phúc Kiến với danh tiếng mỗi đệ tử muốn rời chùa phải qua 36 quan ải chiến đấu với 18 (có thuyết nói 36) tượng đồng La Hán (La Hán Đồng Nhân) làm cho biết bao thế hệ võ thuật say mê võ công Thiếu Lâm cứ tưởng đấy là truyền thuyết có thật tại chùa Thiếu Lâm Tung Sơn. Truyền thuyết về những bức tượng La Hán Đồng Nhân này được khẳng định trong một tài liệu kỹ thuật quân sự trung cổ vào thời nhà Minh tên là Võ Bị Chí được lưu giữ trong phái Vĩnh Xuân Phúc Kiến Bạch Hạc quyền và trường phái Karate Hakutsuru (Không Thủ Đạo Bạch Hạc) của Đại Sư Hohan Soken là truyền nhân chính thống đã được ghi vào sách kỷ lục Guiness về kỳ tích diễn quyền trên một tấm ván mỏng thả trên mặt nước. Phái Không Thủ Đạo Bạch Hạc có nguồn gốc từ Bạch Hạc quyền chính là thủy tổ của tất cả các hệ phái Không Thủ Đạo ngày nay.
Tại chùa Thiếu Lâm Tung Sơn Hà Nam không hề có một sự khẳng định hay một dấu vết nào nhắc đến niềm tự hào về truyền thuyết những tượng đồng La Hán cả và cũng không có một thư tịch nào khẳng định chùa đã từng có chính sách nhận đệ tự tục gia vào để truyền thụ võ công rồi cho hạ sơn.
Câu chuyện về 36 quan ải tại chùa Nam Thiếu Lâm ở Phúc Kiến với các bức tượng đồng nhân La Hán đã được đạo diễn của hãng phim Thiệu Thị là Lưu Gia Lương (劉家良) đồng thời cũng là võ sư và là truyền nhân của Hồng Gia quyền dựng thành một bộ phim nổi tiếng vào tháng giêng năm 1978 mang tựa đề Thiếu Lâm 36 Quan ải với diễn viên chính là Lưu Gia Huy (劉家輝).
Lưu Gia Lương đã từng đạo diễn rất nhiều phim võ thuật Hồng Kông chung với các vị đạo diễn nổi tiếng của Hong Kong như La Duy, Trương Triệt tại phim trường Thiệu Thị qua các bộ phim như: Hồng Hy Quan và Phương Thế Ngọc (tháng giêng năm 1974), Hoàng Phi Hồng và Lục A Thái (năm 1976), Thiếu Lâm 36 Quan ải (tháng giêng năm 1978), Túy Hầu (Khỉ Say), Thiếu Lâm Hồng Gia quyền (năm 1975)...
Trên thực tế vua Khang Hi nhà Thanh là ông nội của vua Càn Long, cả 2 người đã có công bỏ tiền của ra xây lại chùa Thiếu Lâm Tung Sơn cho rộng rãi hơn, tấm biển Thiếu Lâm Tự ngày nay tại cổng chính trước chùa chính là bút tích thư pháp của Khang HiCàn Long đã viếng thăm Tung Sơn Thiếu Lâm Tự vào năm Càn Long thứ 15 tức năm 1750 Tây lịch.
Sở dĩ vua Càn Long cho lệnh đốt chùa Nam Thiếu Lâm tại thành phố Toàn Châu tỉnh Phúc Kiến do chùa này là căn cứ địa của phong trào Phản Thanh Phục Minh tại miền Nam Trung Hoa.
Do vậy khi nói đến chùa Thiếu Lâm tại Trung Quốc thường có khái niệm chùa Nam chùa Bắc, chùa Nam chính là Nam Thiếu Lâm Tự tại Phúc Kiến (có 3 chùa Nam Thiếu Lâm Phúc Kiến: ở Toàn Châu, Phủ ĐiềnPhúc Thanh), chùa Bắc chính là Hà Nam Tung Sơn Thiếu Lâm tự và Hà Bắc Bàn Sơn Tử Cái đỉnh Thiếu Lâm tự.
Ngoài ra còn có thể kể đến Hạ Tứ Hổ Hồng Gia Quyền (下四虎洪家拳) và Hồng Quyền Ngũ Hình (洪拳五形) giờ chỉ còn lưu truyền bàng bạc trong dân gian và trên phim ảnh có dấu tích từ Miêu Hiển cũng nổi danh khắp vùng Hoa Nam, Bắc Hồng Quyền (北洪拳) từ đầu vương triều Minh rồi đến Hồng Quyền Lĩnh Nam (洪拳嶺南), Hồng Gia Quyền La Phù Sơn (洪家拳 羅浮山), Hồng Quyền Thiên Địa Hội của Trần Cận Nam là thủ lĩnh Thiên Địa Hội nổi danh khắp vùng Quảng Đông, Phúc Kiến, Hồng KôngĐài Loan, Hồng Quyền (紅拳) nguyên thủy của Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn và Lý Tẩu (học trò của Bạch Ngọc Phong) từ Tung Sơn Thiếu Lâm Tự, Hồng Quyền Hổ Hạc Biến Hình (虎鶴雙形), Hồng Quyền Phúc Kiến của cụ Tô Tử Quang đang lưu truyền tại Quảng Tây (Trung Quốc) và Hà Nội...

Những võ sư nổi tiếng

Sau hàng trăm năm, Hồng quyền đã sản sinh ra rất nhiều võ sư nổi tiếng như Hoàng Thái (cha của Hoàng Kỳ Anh, Hoàng Kỳ Anh (cha của Hoàng Phi Hồng), Lâm Thế Vinh, Lục A Thái, Tô Tử Quang, Trình Hoa, Trình Luân, [[Hà Châu], Nguyễn Mạnh Đức Hồng Gia La Phù Sơn (hậu duệ đích tôn 4 đời của cụ Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến)... Hồng gia quyền được người dân Trung Hoa coi là Nam Quyền Vương (vua của dòng Nam Quyền) hay còn gọi là Hồng Quyền Nhất Gia (Hồng Gia Quyền đứng đầu Trung Quốc) trong Ngũ Đại Danh Gia Quyền Thuật Thiếu Lâm Nam Quyền Phúc Kiến là Hồng, Lưu, Lý, Mạc, Thái (Hung Gar, Liu Gar, Li Gar, Mo Gar, Choy Gar).
Trong Ngũ Đại Danh Gia Quyền Thuật của Thiếu Lâm Nam Quyền Phúc Kiến thi Thiếu Lâm Mạc Gia (Shaolin Mo Gar) chỉ có các đệ tử hoàn toàn là phái nữ do Mạc Thanh Kiều cũng là nữ nhân sáng lập.

Sự truyền bá Thiếu Lâm Hồng gia vào Việt Nam

Miền Bắc

Môn phái Thiếu Lâm - Hồng Gia quyền được truyền bá vào Hà Nội là do công của cố võ sư Tô Tử Quang (1910 - 1998). Ông sinh năm 1910 tại Long Châu, Quảng Tây, Trung Quốc.
Ngay từ nhỏ ông đã được đích thân cha là cụ Tô Cao Lân, một võ sư thành danh ở tỉnh Quảng Đông, truyền dạy môn Thiếu Lâm- Hồng Gia với sự say mê khổ luyện, ông đã tiếp thu được tinh hoa và kỹ thuật huyền diệu của môn phái năm 18 tuổi trong một cuộc thi võ hàng năm của tỉnh Quảng Tây, ông đã đạt giải nhì toàn tỉnh và được mệnh danh là “Thần đồng võ thuật”.
Do hoàn cảnh, năm 1954 ông Tô Tử Quang sang Việt Nam sinh sống và làm việc tại nhà máy in báo thanh niên Hà Nội, sau này là nhà máy in Thống Nhất.
Năm 1954 ông Tô Tử Quang đã biểu diễn võ thuật tại nhà thi đấu Đông Dương nay là Thuỷ Tạ với bài La Hán Quyền, ông đã đạt huy chương bạc.
Từ năm 1954 ông Tô Tử Quang luôn là người đại diện cho võ phái Thiếu Lâm Hồng gia quyền của người Hoa tại Hà Nội cho đến ngày ông mất tháng 11-1998.
Năm 1965 ông cùng học trò đại diện cho hội Hoa Kiều biểu diễn võ thuật cho thủ tướng Phạm Văn Đồng và bác sĩ Trần Duy Hưng .
Năm 1982 ông đã tham gia thành lập và phát triển hội võ thuật Hà Nội. Ông đã được bầu làm ban cố vấn võ thuật của Liên Đoàn võ thuật Việt Nam, và các môn phái khác đều công nhận ông Tô Tử Quang là chưởng môn đầu tiên của Thiểu Lâm Hồng gia quyền tại Hà Nội.
Ngày 22 tháng 7 năm 1998 ông đã được ông Hoàng Vĩnh Giang giám đốc sở thể dục thể thao Hà Nội thay mặt UBND thành phố Hà Nội trao tặng danh hiệu “Lão võ sư cao cấp” Chưởng môn phái Thiếu Lâm Hồng gia quyền.

Miền Nam

Hồng Quyền được truyền đến Sài Gòn có hai lưu phái khác nhau là Hồng Quyền Hồng Hy Quan chính tông chân truyền từ các môn đồ Hồng Hy Quan ở Quảng Đông sang Việt Nam bắt đầu từ cụ Trình Luân (đã qua đời tại quận Bình Thạnh, Sài Gòn trước năm 1975) và cụ Hà Châu hiện đang sống ở phường Bình Khánh, Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh (Sài Gòn cũ), hiện nay (2007) cụ đã 83 tuổi nhưng theo khai sinh thì chỉ 80 tuổi.
Võ công của cụ Hà Châu tập trung vào các môn luyện nội công và ngạnh công (công phá). Có thể thấy rằng trong các môn đồ Hồng Gia quyền truyền từ Hồng Hy Quan đến nay chỉ có cụ Hà Châu là luyện đạt thành nội công chân truyền của Nam Thiếu Lâm và cả các môn ngạnh công, như Thiết đầu công, dùng đầu đập vỡ 4-5 viên gạch Tàu dày đến 25-30 phân; và Chưởng pháp, dùng bàn tay không đóng đinh 20 phân rồi nhổ lên cũng bằng tay không, dùng tay không chém vỡ trái dừa khô; cho đến môn Thiên cân trụy, dùng thân mình chịu sức nặng của xe ủi lô làm đường lên đến 12 tấn !
Ngoài võ sư Hà Châu ra, còn có võ sư Huỳnh Thuận Quý từ Quảng Đông (Trung Quốc) sang Sài Gòn Chợ Lớn (miền nam Việt Nam) vào năm 1968 truyền bá Hồng Quyền Hồng Hy Quan chính tông chân truyền tại hội võ quán Liên Nghĩa Đường tại quận 11 và truyền đến võ sư Huỳnh Kiều. Ngày nay Liên Nghĩa Đường vẫn còn hoạt động với nhiều sinh hoạt múa Lân Sư Rồng trong cộng đồng người Quảng Đông tại Chợ Lớn.
Hồng Quyền thứ hai là Hồng Gia Quyền La Phù Sơn (Hung Ga Kuen Luofu Shan 洪家拳 羅浮山) truyền từ cụ Nguyễn Mạnh Đức (là cháu đích tôn của cụ Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến), cụ Nguyễn Mạnh Đức (đã qua đời tại Pháp) học từ Sư Phụ (người Trung Quốc) tại núi La Phù Sơn tỉnh Quảng Đông), Trung Quốc giáp ranh tỉnh Móng Cái miền Bắc Việt Nam. Sau này Cụ có 2 huynh đệ là Lý văn Tân và Phùng tố Hằng cùng về VN sinh sống.
Cụ Nguyễn Mạnh Đức truyền lại cho con trai là Nguyễn Minh Chánh, thường được gọi là anh Lân, sau này tự xưng là Lý Hồng Thái, sinh năm 1952 tại Hà Nội, hiện đang cư ngụ tại Mỹ (Hoa Kỳ). Cụ Đức không có học trò nào khác ngoài người con trai được truyền thụ trực tiếp từ chính cụ Đức đầy đủ hệ thống Hồng Gia Quyền La Phù Sơn, sau Lý Hồng Thái có một số đệ tử đã rời môn phái và tự lập chi nhánh riêng(tự lập môn hộ) như Lý Hồng Anh, Kim Tùng Hạc thành lập Bạch Hạc Quyền La Phù Sơn.
Hồng Gia Quyền La Phù Sơn không chú trong luyện các môn ngạnh công (công phá) hay nội công mà chủ yếu luyện về nội khí và dưỡng thần, dùng khí hóa thành nội kình khi diễn quyền, không chu trong dùng tay không đánh vào các vật cứng bên ngoài.
Lý Hồng Thái đã rất thành công khi phát triển Hồng Gia Quyền La Phù Sơn và lấy tên Hồng Gia Việt Nam phát triển tại Hoa Kỳ, Nga, Việt Nam... Lý Hồng Thái cũng đã từng quay lại núi La Phù để tìm về cội nguồn của Hồng Gia La Phù nhưng môn đồ của dòng quyền thuật này đã qua đời chỉ còn vài người lưu lạc ra bên ngoài. Hiện nay ở Sài Gòn, trong cộng đồng người Hoa tại quận 5 tương truyền còn một vài người nhưng không còn lưu truyền bộ môn này nữa.
Nếu như Hồng Gia quyền của Hồng Hy Quan chủ về cương với thế quyền dũng mãnh ào ạt, do có nguồn gốc từ Nam Thiếu Lâm Phúc Kiến, thì Hồng Gia La Phù Sơn lại chủ cương nhu phối triển với thế quyền linh hoạt và uyển chuyển, phong cách kín đáo hơn.
Hồng Quyền La Phù Sơn có 36 thức khí công căn bản sử dụng thủ pháp đặc trưng của Hồng Quyền và 5 bộ khí công Long, Xà, Hổ, Báo, Hạc, 5 bài Long Hình Quyền, Xà Hình Quyền, Hổ Hình Quyền, Báo Hình Quyền, Hạc Hình Quyền rất đặc trưng và kỹ thuật MA VÂN THỦ tuyệt kỹ công phu. Cuối cùng ở cấp cao nhất là bài Kim Hầu Quyền tinh diệu đặc trưng cho thấy những nét tiêu biểu nhất của Thiếu Lâm Quyền Tung Sơn Hà Nam : bộ pháp (tấn pháp và cước pháp) di chuyển nhanh và kín đáo, thủ pháp (đòn tay) chặt chẽ có cương có nhu gọn gàng và tiết kiệm động tác; sử dụng cầm nã thủ pháp và cùi chỏ, đầu gối rất nhiều, phát kình thì cương mãnh.
Ở Sài Gòn, quận 5 trên đường Hàm Tử có võ đường của Thiếu Lâm Trung Ngoại Châu Gia do võ sư Lưu Kiếm Xương. Vào năm 2007, tuy đã 62 tuổi nhưng võ sư vẫn rất tráng kiện, ông là con trai của cố võ sư Lưu Hào Lương gốc người Quảng Đông di cư sang Việt Nam - đang truyền bá bộ môn này với đội lân mang tên NHÂN NGHĨA ĐƯỜNG đại diện cho đội lân Việt Nam đã từng đoạt giải nhất Múa lân - sư - rồng tại Hồng KôngSingapore (thắng luôn cả đội Trung Quốc, Hong Kong, và Đài Loan) khi biểu diễn múa Lân-Sư-Rồng trên Mai Hoa Thung là những cọc cao 2-3 mét được xếp thành những trận đồ hình hoa Mai.

Phả hệ nhân vật Hồng Gia quyền

Danh sách sau đây cho biết những nhân vật là truyền nhân chính thống của Hồng Gia quyền phát xuất từ Hồng Hy Quan.
Những nhân vật thuộc các nhánh Hồng Gia quyền khác chưa có nguồn tài liệu chính thống và chính xác nên không thể liệt kê vào, điều đó không có nghĩa là phủ nhận các nhánh Hồng Gia quyền khác không phát xuất từ Hồng Hy Quan. Nói chung các nhánh Hồng Gia quyền đều phát xuất từ Hồng Hy Quan, kể cả Hồng Gia quyền La Phù Sơn (Hung Ga Kuen Luo Fu Shan 洪家拳 羅浮山), Bắc Hồng quyền (Bak Hung Kuen 北洪拳), Hồng quyền Ngũ Hình (Ng Jing Hung Kuen 五形洪拳), Hạ Tứ Hổ Hồng Gia Quyền (Ha Sei Fu Hung Gar Kuen 下四虎洪家拳), Hồng Quyền Hổ Hạc Song Hình (Hung Kuen Fu Hok Seung Jing 洪拳虎鶴雙形), Hồng quyền Lĩnh Nam (Hung Kuen Lingnaam 洪拳嶺南)... Ngoại trừ Hồng quyền (Hong Quan) của Lý Tẩu và Tống Thái tổ Triệu Khuông Dẫn tại chùa Thiếu Lâm Tung Sơn ở huyện Đăng Phong, tỉnh Hà Nam là không có liên quan.
Cần chú ý danh từ Hồng Quyền (Hung Kuen) viết tắt từ Hồng Gia Quyền (Hung Ga Kuen) hay Hung Style là của Hồng Hy Quan. Trong khi Hồng Quyền của Thiếu Lâm Tung Sơn Hà Nam được viết là Hong Quan (紅拳) hay Red Fist khi dịch sang tiếng Anh.
Các môn Hồng quyền mà dùng chữ Hung Kuen (洪拳) khi chuyển từ âm Quảng Đông sang tiếng Anh (Latin hóa) chính là viết tắt từ chữ Hồng gia quyền (Hung Ga Kuen 洪家拳) có nguồn gốc từ Hồng Hy Quan với Kỹ pháp đặc trưng là Kiều thủ (Kìu Sẩu 橋 手 - 桥手) còn gọi là Kiều pháp (Kiu Fa 橋 法 - 桥法) và Hồ Điệp Chưởng (Hú Dié Zhǎng, Wùh Dihp Jéung 鶘蝶掌) và không dùng danh từ Trung Bình Tấn mà dùng danh từ khác gọi là Tứ Bình Mã (Sei Ping Ma 四平馬) hay Tứ Bình Bát Phân (Sei Ping Baat Fahn 四平八分) và được dịch sang tiếng Anh là Four Level Horse Stance.
Xin lưu ý chữ HỒNG (紅) trong Hồng quyền (Hong Quan 紅拳) của Thiếu Lâm Tung Sơn Hà Nam xuất phát từ Lý Tẩu và Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn khác với chữ HỒNG (洪) trong Hồng Gia Quyền (Hung Ga Kuen 洪家拳) gọi tắt là Hồng quyền (Hung Kuen 洪拳) xuất phát từ Hồng Hy Quan.
Hồng quyền phát xuất từ Hồng Hy Quan nổi tiếng với kỹ pháp có câu nói nổi tiếng là Ổn Mã Ngạnh Kiều 穩馬硬橋, Trường Kiều Đại Mã 长橋大馬, Đoản Kiều Tiểu Mã 短橋小馬, tạm dịch là Ngựa Vững Cầu Cứng, Ngựa Lớn Cầu Dài, Ngựa Nhỏ Cầu Ngắn, nghĩa là bộ tấn vững chãi đòn tay rắn chắc, đòn tay dài với bộ tấn rộng thấp, đòn tay ngắn với bộ tấn nhỏ hẹp và cao (Cao Mã).
Danh sách các nhân vật dưới đây có kèm theo âm Latin hóa từ âm Quảng Đông và kèm theo cả Hán tự để cho độc giả có thể đánh máy tên nhân vật vào các trang web trên www.youtube.com để xem các video clip do chính những nhân vật này diễn luyện những bài quyền nổi tiếng của Hồng quyền (Cung Tự Phục Hổ quyền, Hổ Hạc Song Hình quyền và Thiết Tuyến quyền), tên của các nhân vật (âm Latin hóa) chính là từ khóa trên www.google.com, đây là những nhân vật sống động và là truyền nhân chính thống của Hồng Gia quyền vẫn còn đang tồn tại trong thế giới hiện đại.
Võ đường Thiếu Lâm Hồng gia (Hồng Hy Quan) Sài Gòn Chợ Lớn:
Có 2 võ đường Hồng gia quyền còn tồn tại ngày nay tại khu Sài Gòn Chợ Lớn:
1. Võ đường Thiếu Lâm Hồng gia của cụ Hà Châu tại số 6/20C đường Trần Não, Phường An Khánh, Quận 2, Tp. HCM do người học trò người Pháp tên Philip đang quản nhiệm và câu lạc bộ Thiếu Lâm Hồng gia do võ sư Văn Lý phụ trách tại Nhà Văn Hóa Thiếu Nhi Tp.HCM tại số 169 NAM KỲ KHỞI NGHĨA, P.7, Q.3, TP.HCM - Điện thọai: 39326963.
2. Võ đường Thiếu Lâm Hồng Gia của cụ Huỳnh Thuận Quý từ tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc) sang Việt Nam vào năm 1968 tập họp Hiệp Hội Nghiệp Đoàn Ngành Da Chợ Lớn và truyền bá Hồng Gia quyền tại số 27, đường Âu Cơ, Phường 14, Quận 11, Tp. HCM. Năm 1973 cụ Huỳnh Thuận Quý trở về Hồng Kông và trao quyền quản nhiệm lại cho võ sư Huỳnh Kiều. Năm 2001 võ sư Huỳnh Kiều đã tạ thế và võ đường Hồng gia này đã hoạt động từ thời cụ Huỳnh Thuận Quý cho đến nay (2008) dưới danh nghĩa là đoàn Lân Sư Rồng Liên Nghĩa Đường cũng tại địa chỉ số 27, đường Âu Cơ, Phường 14, Quận 11, Tp. HCM. Hiện nay Liên Nghĩa Đường có thể được xem là võ đường Hồng Gia duy nhất và lớn nhất của cộng đồng người Quảng Đông tại khu Sài Gòn Chợ Lớn nói riêng và tại Việt Nam nói chung với hơn 100 hội viên người Quảng Đông.
Phả hệ nhân vật Hồng Gia Quyền

Thông tin thêm

Logo của Hồng Gia quyền dòng của cụ Hà Châu.
  • Hồng Hy Quan có rất nhiều môn đồ (có đến cả chục vạn người ở Quảng Đông), cụ Trình Hoa và cụ Trình Luân cũng chỉ là môn đồ trong số đó mà thôi, Hoàng Thái, Hoàng Kỳ Anh, Hoàng Phi Hồng cũng tương tự như vậy.
  • Riêng bài Phá Sơn Quyền chưa phải là đặc trưng nổi bật của Hồng Quyền Hồng Hy Quan vì đặc trưng của hệ quyền này là lối đánh Trường Kiều Đại Mã trong hệ thống Kiều Thủ (Kìu Sẩu - người Trung Quốc dịch sang tiếng Anh gọi là Bridge Hand) hay còn gọi là "Kiều pháp" - Kiều nghĩa là Cây Cầu ở đây chỉ khoảng cách tay quyền dài hay ngắn, Thủ là Tay Quyền cho nên trong Thiếu Lâm Vịnh XuânPhép Chi Sẩu tức là phép Niêm Thủ đối phương nên khi tập phải bịt mắt để dùng xúc giác ở đôi tay Thính Kình mà nghe lực tay quyền đối phương - và trong Thiếu Lâm Quyền hay có câu "Tầm Kiều - Phá Mã" là một chiến thuật đo lường khoảng cách ta-địch (Tầm nghĩa là tìm, Kiều là Cây Cầu chỉ khoảng cách) và triệt tiêu bộ tấn (Phá Mã) đối phương ngay khi vào trận giao đấu.
  • Bài Phá Sơn Quyền có lối đánh ngắn (đoản đả) nhiều hơn và mang tính cận chiến, Kiều Thủ ở đây chủ yếu là Đoản Kiều (Kiều ngắn) và đứng tấn cao (Cao Mã). Trong bài Phá Sơn quyền (thuộc nhánh Hà Châu) có thể nói là kỹ thuật Kiều Thủ được triển khai tối đa trong cách đánh cận chiến nhập nội.
  • Thái Gia Quyền (Choy Gar Kuen) của Thái Lý Phật (Choy Lee Fut) theo sách Nam Quyền Toàn Thư (xem mục Sách Tham Khảo phía dưới bài có giới thiệu) chú thích rằng đó là môn quyền của ba hệ phái Thái Gia (Choy Gar), Lý Gia (Li Gar), và Thiếu Lâm Phật Gia Quyền (Shaolin Fut Gar Kuen) được kết hợp tinh tuyển lại. Có nghĩa là Thái Lý Phật không phải tên riêng của một nhân vật, nên lưu ý điểm này.
  • Thiếu Lâm Trung Ngoại Châu Gia (Shaolin Chung Oi Chau Ka or Shaolin Zhong Oi Jow Gar) do Châu Long (Jow Lung) sáng tạo (xin xem tài liệu tham khảo bằng tiếng Anh phía dưới mục Liên Kết Ngoài - Tham Khảo) thì lại là sự kết hợp giữa Hồng Gia Quyền và Thái Gia Quyền nên trong giới võ thuật thường hay nói quyền thuật của Thiếu Lâm Châu Gia là đầu Hồng đuôi Thái (Hung Tau Choy Mei dịch âm Hán Việt là Hồng Đầu Thái Vỹ). Xét cho cùng, Thiếu Lâm Châu Gia cũng có thể coi như một nhánh phân lưu của Hồng Gia Quyền. Hệ quyền của Châu Gia hết 70% là nguyên bản các bài của Hồng Gia Quyền (như bài Cung Tự Phục Hổ Quyền, Hổ Hạc Song Hình Quyền, Vạn Tự Quyền) nhưng bị cải biến đi khá nhiều tiết đoạn.

Triết Lý Aikido

VS Ngô Quyền
Sự khác biệt nổi bật giữa Aikido và các bộ môn khác là ở chỗ Aikido đã hoàn chỉnh được một hệ thống lý luận, một nhân sinh quan đúng đắn để chỉ đạo cho kỹ thuật và hành động của mình trong cuộc sống, và dùng phương pháp này để bồi dưỡng, củng cố hiểu biết về triết lý Aikido. Tư duy chính đáng khởi đầu cho hành động chính đáng nằm trong một phương pháp giải quyết một cách xây dựng và tốt đẹp.
Học Aikido mà không hiểu rõ tinh thần của nó hoặc không thể hiện được tinh thần ấy thì kỹ thuật học được có thể ví như một cái xác không hồn, không sinh động để biến hóa đúng hướng đã vạch của vị khai sáng bổn môn.
Để nhấn mạnh điều này, John Stevens (dưới sự hướng dẫn của Thầy Shirata Rinjiro) đã viết trong cuốn AIKIDO, THE WAY OF HARMONY: “…coi Aikido như một môn võ thuật bao gồm những thế ném, quật, khóa – những kỹ thuật có thể thấy trong bất cứ môn tự vệ nào – là một điều phỉ báng cả một đời tầm đạo của Tổ sư”.
Vì không am tường, thấm nhuần tư tưởng Aikido mà một số môn đồ không nhỏ đã khư khư lấy cái THUẬT của AIKI (Hiệp khí) và lái qua con đường đấu tranh tương đối, không những đã vô tình coi thường công trình tạo dựng của vị sáng tổ mà còn hạ thấp bổn môn từ ĐẠO (DO) xuống THUẬT (Jitsu).
Do đó, để Aikido được chính thống, để hiểu rõ ý chí của vị khai sáng môn phái và để trở thành một môn đồ chân chính, các học viên đều phải tìm hiểu học hỏi và thấu triệt triết lý bổn môn hầu thể hiện kỹ thuật đúng với tinh thần thuần khiết, cao cả của nó, bao gồm những nguyên lý chính sau đây:
1. TÌNH THƯƠNG
Là yếu tố nòng cốt của vạn vật, khởi phát một sức mạnh thiêng liêng, hấp lực để kết hợp, tạo thành vũ trụ. Đó là ái lực sản sinh ra mọi cuộc sống. Đó là đức lớn của trời đất: Đức HIẾU SINH (Thiên địa chi đại đức viết SINH – Hệ Từ thượng truyện, Khổng Tử). Do đó, nó là căn bản cho mọi tư tưởng và hành động DƯỠNG SINH.
Tình thương cũng là sức mạnh quy tụ muôn loài và tạo dựng xã hội loài người – Đồng thanh tương ứng, đồng khí  tương cầu.
Tình thương, hay Tình Yêu Chân chính, là một tình cảm vô cùng tốt đẹp đưa đến những hành động vị tha (Dương hóa): trong phạm vi gia đình, thể hiện qua sự kết hợp đằm thắm lứa đôi, sự ràng buộc giữa những thế hệ (quan hệ phụ mẫu, huynh đệ chi tình), rộng lớn hơn thì là tình quê hương đất nước, nòi giống và cao cả hơn là lòng nhân đạo, tình yêu thiên nhiên, mong muốn tìm về với vũ trụ bao la.
Nhờ tình thương mới có HY SINH, mới biết NHẪN NHỊN, kiên trì, tiến tới sự THÔNG CẢM và THA THỨ để xóa bỏ HẬN THÙ, GANH GHÉT … Tình yêu là một nguồn cảm hứng vô tận của mọi ngành văn nghệ  như THI, VĂN, NHẠC, HỌA…
Vì thế AIKIDO lấy TÌNH THƯƠNG làm nguồn cội.
Trong kỹ thuật Aikido, TÌNH THUƠNG đã ảnh hưởng tới lối kết thúc đòn thế (hóa giải và kiềm chế), loại bỏ mọi độc chiêu, sát thủ, phản ánh lên gương mặt an nhiên tự tại và tạo ra một phong thái đặc thù: thoải mái, nhẹ nhàng với những đường nét nghệ thuật.
2. HÒA HIỆP (HỢP)
Nhờ ái lực của Tình Thương mới có tiếp cận. Khi tiếp cận muốn có môt tương quan cân đối, ổn định thì phải biết HÒA HIỆP. Thế nên hòa hiệp là một định lý chuyên hóa, một nguyên lý của vũ trụ. Aikido đã lấy nó làm phương châm HÀNH ĐỘNG.
Trong bản thể, sự HÒA HIỆP đã giúp ta phát triển hệ thống khí lực, thống nhất THÂN TÂM, duy trì ổn định nội tại, tạo thành sức mạnh tổng hợp, đem lại hiệu năng tối đa cho mọi hành động. Trong tiếp xúc, HÒA HIỆP hóa giải mọi hình thức công kích, mọi áp lực, đem lại trật tự, cân đối, ổn định và đoàn kết  trong tập thể.
Trong môi trường, nhờ biết ổn định được nội tại, quân bình trong tương quan xã hội mà ta đạt được khả năng tự thích ứng với mọi đổi thay, biến chuyển của thiên nhiên để sống KHỎE, LÂU và CÓ ÍCH cho xã hội.
Sự HÒA HIỆP trọn vẹn còn có thể đưa  ta tới đỉnh NGHỆ THUẬT:
- Trong văn học, một áng văn hay, một vần thơ tuyệt hảo nếu không được một nghệ sĩ bình lên, ngâm nga với rung động của tâm hồn mình, hòa hợp với tâm ý tác của tác giả thì làm sao gây được sự xúc động sâu xa ở người nghe!
- Chỉ với bảy nốt nhạc cơ bản, người nhạc sĩ giỏi  đã gia giảm cung bậc, tiết điệu để hòa hiệp tạo thành  những bản nhạc bất hủ. Nếu những bản nhạc đó lại được danh cầm vận dụng khéo léo cường độ âm thanh mà tấu lên ắt sẽ gieo vào lòng người những âm hưởng không bao giờ quên được.
- Trong hội họa, một nghệ sĩ tài ba có thể mặc sức phối hợp những đường nét  đậm nhạt, những màu sắc phong phú, khi hài hòa, lúc tương phản để tạo ra những tần số ánh sáng đi sâu vào tâm hồn người thưởng lãm.
HÒA HIỆP mà đạt tới mức NGHỆ THUẬT cao là tới được CHÂN-THIỆN-MỸ. Aikido đã dùng nguyên lý này để đạt CHÂN LÝ vậy.
Trong kỹ thuật Aikido, cũng giống như TÌNH THƯƠNG, nguyên lý HÒA HIỆP thể hiện qua tinh thần đến mọi tư thế và động tác:

- Giữ tương quan với đối nhân trong khoảng “gian hợp” (Ma-ai).
- THUẬN theo hướng lực công kích mà cộng (HIỆP) theo lực của mình mà mượn sức đánh người (tá lực đả lực).
- Trong mỗi chiêu thức ta đều phải khéo léo khai thác đúng THỜI ĐIỂM (De-ai) tiếp xúc để hòa hiệp hai động lực; tuy HÒA HIỆP nhưng không để LẪN vào với lực của đối phương vì ta luôn CHỦ ĐỘNG để DẪN lực kia tới một chung cuộc quân bình và tốt đẹp (không gây thương tổn cho đối phương).
3. KHÍ LỰC
Là năng lực xuyên suốt và chuyển hóa vạn vật trong vũ trụ, là cái thể đồng nhất của vạn vật. Vì tương đồng nên dễ HÒA HIỆP. Thế nên Aikido lấy nó làm cơ sở để kết hợp mà hóa giải  mọi xáo trộn.
Trong con người, KHÍ là sinh lực của cha mẹ phối hợp truyền sang phôi để phát triển tiếp nối thế hệ sau (tiên-thiên-khí). Sau khi sinh ra, KHÍ LỰC này được tiếp dưỡng bằng sinh lực vũ trụ qua hô hấp khí trời và tinh hoa vật chất  của các thừc ăn uống qua tiêu hóa. KHÍ LỰC này là nguồn năng lượng cho mọi sinh hoạt từ vật chất đến tinh thần, cho những chức năng từ tự động đến chủ động.
KHÍ thường tản mạn trong cơ thể do ảnh hưởng của ngoại giới tác động lên giác quan: khi nổi giận thì “NỘ KHÍ xung thiên”, khi phấn khởi thì “HÀO KHÍ ngút trời”, thấy sống động ta bảo là “có SINH KHÍ”, lúc ốm đau thì “CHÂN KHÍ” suy giảm, nên “KHÍ SẮC” trở nên xấu… Do đó, nếu ta không biết qui nó (KHÍ) về một mối để tâm ý điều động mạch lạc, đúng phương pháp, thì không thể khai thác được tiềm năng khí lực của mình.
KHÍ  là yếu tố căn bản trong mọi động tác kỹ thuật Aikido. Luyện tập mà không biết đến KHÍ LỰC thì không còn là kỹ thuật Aikido nữa (“No ki, No Aikido” – Koichi Tohei, 10 đẳng Aikido). Do đó, LUYỆN KHÍ là một điều không thể thiếu sót trong luyện tập Aikido.
4. BẤT TƯƠNG TRANH
Đây là một nguyên lý đặc thù của Aikido, không có trong bất cứ môn võ thuật nào  khác. Môn phái nào cũng cố công nghiên cứu, luyện tập những tuyệt chiêu để chiến thắng đối phương. Nhưng Aikido lại có quan niệm khác: Không nỗ lực tìm những chiến thắng TƯƠNG ĐỐI. Ngay cả những nhà vô địch cũng không giữ chức vô địch được lâu vì “Cao nhân tất hữu cao nhân trị”, hoặc do sự xói mòn của thời gian họ cũng sẽ phải thất bại thôi. Trong thế giới ham tranh dành thắng lợi này luôn luôn có kẻ vươn mình lên lấn lướt, làn sóng sau phủ lên làn sóng trước vì tre già thì măng mọc, mà tre không thể không già được. Aikido gọi cái thắng này (Cái THẮNG ngày hôm nay sẽ  được nối tiếp bằng cái BẠI ngày mai) là cái THẮNG TƯƠNG ĐỐI và do đó không hướng hết thì giờ và công sức để chỉ đạt cái tương đối phù du của cuộc sống. Con đường Aikido phải là con đường đưa tới chân lý vĩnh cửu.
Ai cũng đã thấy mặt phải của cái “thắng”, nay ta thử  tìm hiểu mặt trái của nó:
- Những người say mê chiến thắng thường mắc phải rất nhiều tính xấu như chủ quan, kiêu căng, tự mãn… và tệ nhất là lấy làm sung sướng trong lỗi lầm, đau khổ của kẻ chiến bại.
- Vì muốn thắng – dù mong muốn mang vinh dự về cho màu cờ sắc áo – nên nhiều đấu thủ đã dùng mọi thủ đoạn bất chính, khai thác mọi kẽ hở của luật lệ, mọi sơ sót của trọng tài.Trong nhiều trận thi đấu bóng đá quốc tế, ta đã thường thấy nhiều cầu  thủ đốn chân, níu áo hoặc làm ngã đối phương để đến nỗi bị lãnh thẻ phạt, bị treo giò. Nhiều nhà vô địch điền kinh đã bị tước bỏ danh sự khi bị tìm thấy bằng chứng đã dùng chất kích thích. Trong nhiều trận tranh tài khác, vì ham thắng mà ta đã thấy xảy ra nhiều cuộc xô xát, mất hết cả phong cách thể thao, tinh thần thượng võ. Chính khán giả bên ngoài đôi khi cũng bị lôi cuốn vào sự tranh chấp trên sân bãi, đưa đến những hậu quả vô cùng tai hại.
Với mục tiêu hoàn thiện con người, kiến tạo một xã hội tiến bộ đặt nền tảng trên những nguyên lý cao cả, thuận theo qui luật của vũ trụ, Aikido chấp nhận con đường cam go hơn để tìm một CHIẾN THẮNG TUYỆT ĐỐI: Làm chủ chính MÌNH để chống lại những yếu hèn, thói hư, tật xấu như lười biếng, tiêu cực, ích kỷ, kiêu mãn, chủ quan, tham lam, ganh ghét, trí trá,…
Thật xứng đáng cho dù ta mất cả cuộc đời  để đấu tranh, chiến thắng và kiểm soát được kẻ địch vĩ đại và dai dẳng này. Aikido tin tưởng rằng “Võ Đạo thể hiện Tình Thương” nên đã đề ra nguyên tắc bất tương tranh. Thế nên trong Aikido không có thi đấu, vì có thi đấu thì phải có quy luật, mà chính những luật này hạn chế khả năng phát huy và sáng tạo. Kỹ thuật Aikido đi từ hữu chiêu sang vô chiêu nên sự phong phú, đa năng, đa diện của nó không thể bị giới hạn trên con đường tiến tới NGHỆ THUẬT được.
Nền văn minh chân chính của nhân loại phải được xây dựng bằng tình thương, sự hòa hiệp và tinh thần bất tương tranh. Chính vì con người có nhiều tham vọng muốn lấn lướt, khống chế kẻ khác mà trái đất này có thể bị đẩy dần tới chỗ hủy diệt. Người ta đã lợi dụng những tiến bộ của khoa học thực nghiệm học hỏi  từ những định luật thiên nhiên để thỏa mãn vật chất tầm thường và mộng bá chủ thay vì phục vụ nhân sinh.
Với suy nghĩ và hành động của mình, Aikido hy vọng tham gia đóng góp một cách cụ thể vào nền HÒA BÌNH và THỊNH VƯỢNG của xã hội loài người.

Thứ Ba, 5 tháng 4, 2011

MÃNG CẦU XIÊM CHỮA UNG THƯ

Nguyệt lê -Thiên Lôi chuyển bản tiếng Anh “SOUR SOP TREATS CANCER”
- Bản dịch của Thảo Vy và Lương Thái Sỹ
Những nghiên cứu về nước ép từ quả mãng cầu xiêm cho thấy đây là công cụ chữa ung thư an toàn, hiệu quả và có sẵn. Nó cũng bảo vệ hệ thống miễn dịch, tránh được một số bệnh truyền nhiễm. Ngoài việc chống ung thư, nước ép mãng cầu xiêm còn là tác nhân chống vi khuẩn, nhiễm nấm, chống ký sinh trùng đường ruột và giun sán, hạ thấp huyết áp, chống trầm cảm và những rối loạn tinh thần. Những phần khác của cây cũng rất hữu dụng.
Một nghiên cứu gần đây về nước ép từ quả mãng cầu xiêm cho thấy: Loại nước ép này là 1 liệu pháp chữa ung thư an toàn và hiệu quả, hoàntoàn từ thiên nhiên nên không gây nôn ói, sụt cân và rụng tóc. Bảo vệ hệ thống miễn dịch của bạn, tránh được một số bệnh truyền nhiễm..Giúp bạn thấy mạnh khỏe hơn trong quá trình chữa ung thư hay các bệnh khác. Tăng năng lượng và giúp bạn thấy lạc quan hơn. Thông tin này có làm bạn ngạc nhiên không? Nó đến từ một công ty dược lớn nhất nước Mỹ, và trái mãng cầu xiêm đã là mục tiêu nghiên cứu của hơn 20 phòng thí nghiệm khoa học từ những năm 1970. Nước ép mãng cầu xiêm có khả năng tiêu diệt các tế bào ung thư cao hơn 1000 lần so với liệu pháp hóa trị.Kết quả nghiên cứu về loại quả này được đăng trên tờ Journal of Natural Products do một trường Ðại học ở Hàn Quốc thực hiện. Nhưng tại sao đến bây giờ chúng ta mới biết điều này? Các tập đoàn lớn bỏ ra mấy chục năm nghiên cứu là vì họ muốn tổng hợp nó thành thuốc để thu lợi nhuận...
Bây giờ bạn đã biết điều này thì hãy nói với những người bị ung thư mà bạn biết, và uống loại nước ép này để bảo vệ chính bạn!

* Nước ép này có thể tìm thấy và tiêu diệt các tế bào của 12 loại ung thư.Như là ung thư ruột, ung thư vú, tuyến tiền liệt, phổi và ung thư tuyến tụy... Giúp làm chậm sự phát triển của các tế bào ung thư nhanh gấp 10 000 lần so với Adriamycin (một loại dùng trong liệu pháp hóa trị chữa ung thư).
Nước ép này không hề làm hại gì đến các tế bào khỏe mạnh cả !!!
Theo các kết quả nghiên cứu, nước ép mãng cầu xiêm có thể tầm soát và tiêu diệt có chọn lọc các tế bào ác tính. Nhưng tại sao đến bây giờ chúng ta mới biết về tác dụng “phép lạ” của mãng cầu xiêm trong phòng chống ung thư? Và đã có bao nhiêu người thiệt mạng oan uổng khi công cụ chống ung thư hiệu quả này bị các công ty dược che giấu?
Mãng cầu xiêm thuộc giống cây thân thấp có tên là Graviola ở Brazil, guanabana trong tiếng tây Ban Nha và Soursop trong tiếng Anh. Quả lớn ngọt, có nhiều hột tách ăn dễ dàng và làm nước ép có mùi vị rất ngon. Graviola là sản phẩm tự nhiên nên theo luật liên bang Mỹ không cần có bằng sáng chế. Như thế, làm sao nó có thể mang lại lợi nhuận nếu các con cá mập dược phẩm công bố khả năng trị liệu “phép lạ” của mãng cầu xiêm ra thị trường? Họ chờ cho đến khi chiết xuất được dưỡng chất chống ung thư của Graviola và bào chế được loại thuốc chống ung thư bằng thành phần nhân tạo từ chất này, xin bằng sáng chế và thu lợi. Tiếc thay khả năng chống ung thư của mãng cầu xiêm có ngay trong cây, qủa mà không cần phải chiết xuất gì cả. Vì vậy để bảo vệ khả năng thu lợi của các loại thuốc chống ung thư có sẵn, cách hay nhất là ém đi những nghiên cứu mang tính “cứu mạng” của mãng cầu xiêm, không công bố nó cho dân chúng.
May mắn, có một nhà khoa học bị lương tâm cắn rứt đã làm lộ câu chuyện về “trái cây phép lạ” cho những người có trọng trách trong y tế Mỹ. Khi viện Khoa học Y tế Mỹ nghe tin này, nó bắt đầu truy tìm những công trình nghiên cứu chống ung thư liên quan đến cây Graviola lấy từ khu rùng mưa Amazon của Brazil.
Năm 1976, Viện Ung thư Quốc gia Mỹ tiến hành cuộc nghiên cứu đầu tiên về loại cây này và kết quả cho thấy, lá và thân của Graviola tiêu diệt hữu hiệu các tế bào ác tính. Nhưng nghiên cứu vẫn chỉ được lưu hành nội bộ chứ không công bố ra ngoài. Sau đó 20 nghiên cứu độc lập khác của các công ty dược hay viện nghiên cứu ung thư do chính quyền tài trợ đều cho thấy khả năng trị ung thư của Graviola. Tuy nhiên, vẫn không có ca thử nghiệm nào được tiến hành chính thức tại các bệnh viện. Chỉ đến khi nghiên cứu của Đại học Cơ đốc giáo Hàn Quốc đăng trên tạp san Journal of Natural Products khẳng định một hoá chất trong Graviola đã tiêu diệt các tế nào ung thư ruột nhanh gấp 10.000 lần hoá chất Adriamycin thường dùng trong hoá trị ung thư người ta mới vỡ lẽ. không gây nôn ói, sụt cân và rụng tóc. Điều quan trọng là không như các hoá chất điều trị ung thư khác, Graviola và nước ép mãng cầu xiêm không hề làm hại gì cho các tế bào khỏe mạnh và không có tác dụng phụ. Người bệnh thấy mạnh khỏe hơn trong quá trình chữa ung thư và các bệnh khác; năng lượng được tăng cường và sống lạc quan hơn. Một nghiên cứu tại Đại học Purdue University sau đó cũng phát hiện ra lá mãng cầu xiêm có khả năng giết các tế bào ác tính của nhiều loại ung thư khác nhau như ung thư ruột, ung thư vú, tuyến tiền liệt, phổi và tuyến tụy. 7 năm im lặng bị phá vỡ. Sự thật được phô bày. Hiện mãng cầu xiêm do thổ dân Brazil trồng hoặc sản phẩm bào chế từ nó đã có mặt nhiều ở Mỹ như một công cụ điều trị và ngăn ngừa ung thư. Một báo cáo đặc biệt có tên Beyond Chemotherapy: New Cancer Killers, Safe as Mother's Milk, do Viện Khoa học Y tế Mỹ công bố về Graviola đã xem loại cây này là “công cụ cách mạng hoá” chống ung thư.
Vì vậy, nếu nhà bạn có vườn rộng và thổ nhưỡng thích hợp, bạn nên trồng một cây mãng cầu xiêm trong sân. Nó sẽ có ích rất nhiều cho bạn và gia đình bạn.

Có đúng là ăn gì bổ nấy không?

ThS Lê Thị Hải, Sức Khỏe & Đời Sống 
Với quan niệm "ăn gì bổ nấy", nhiều bà mẹ bắt con mỗi ngày ăn 2-3 bộ óc lợn để được thông minh, ăn các loại canh xương để chân tay cứng cáp. Nhiều người thường xuyên ăn tim với mong muốn bổ tim, ăn thận nhằm bổ thận... Nhưng thực ra, những thực phẩm này không phải lúc nào cũng giúp bổ "đúng nơi đúng chỗ" như vậy.
Các phủ tạng động vật như tim, gan, thận, dạ dày, tràng, óc... có thành phần dinh dưỡng không cân đối. Nó ít chất đạm hơn so với thịt nạc nhưng lại chứa nhiều cholesterol xấu, không có lợi cho người mắc các bệnh về tim mạch. Những người mắc bệnh sau không nên ăn nhiều phủ tạng động vật:
- Bệnh về tim mạch như rối loạn lipid máu, cao huyết áp, nhồi máu cơ tim, cholesterol máu cao ...
- Bệnh về thận như thận hư nhiễm mỡ.
- Tiểu đường.
- Gút (thống phong).
- Béo phì hoặc thừa cân.
Những đối tượng kể trên nếu ăn nhiều tim, thận thì chẳng những không bổ mà còn gây hại cho sức khỏe, làm bệnh tiến triển nặng thêm.
Việc ăn nhiều óc động vật không giúp trẻ thông minh như nhiều người vẫn tưởng. Sự thông minh chủ yếu do di truyền, một phần do giáo dục và sức khỏe. Để được khỏe mạnh, trẻ phải ăn uống đầy đủ, cân đối các chất dinh dưỡng (đạm, đường, chất béo, vitamin và chất khoáng). Tỷ lệ đạm trong óc lợn chỉ có 9%, chưa bằng một nửa so với thịt nạc (bò, gà, lợn). Trong khi đó, hàm lượng cholesterol trong óc lợn lại cao gấp 40 lần các loại thịt này. Vì vậy, nếu ăn nhiều óc, trẻ sẽ dễ bị rối loạn tiêu hóa hoặc thừa cân, béo phì.
Trẻ ăn nhiều xương chưa hẳn đã tránh được bệnh còi xương nếu chất canxi trong xương không được chuyển hóa tốt. Bệnh còi xương phát sinh do cơ thể thiếu canxi. Đa số trường hợp còi xương không phải do thực phẩm không cung cấp đủ canxi mà là do cơ thể thiếu vitamin D, khiến cho việc hấp thu, chuyển hóa canxi bị rối loạn. Vitamin D có rất ít trong thức ăn, nhưng tiền vitamin D lại có nhiều ở dưới da người. Dưới tác dụng của tia tử ngoại trong ánh nắng mặt trời, nó sẽ chuyển thành vitamin D. Vì vậy, muốn trẻ không bị còi xương, ngoài việc tăng cường thức ăn giàu canxi, cha mẹ còn phải cho trẻ tắm nắng hoặc uống vitamin D với liều 400 UI/ngày.

Mật ong và quế có thể giúp trị được nhiều bệnh

Theo Tin Tức Cao Niên
Các nhà khoa học đã thừa nhận mật ong (honey) là một dược liệu rất hữu hiệu trong việc chữa trị đủ các loại bệnh tật. Mật ong có thể được sử dụng cho nhiều loại bệnh mà không sợ có  bất cứ phản ứng phụ nào Mặc dẩu có vị ngọt, mật ong không gây nguy hại gì cho người bị tiểu đường nếu được dùng đúng liều lượng.
 Quế được sử dụng làm gia vị trong nhiều nền ẩm thực các nước trên thế giới mang lại sự hấp dẫn cho món ăn.Ngoài ra quế cũng là một vị thuộc có giá trị được dùng phổ biến trong Đông y lẫn Tây y.
 
Trong tạp chí Weekly World News xuất bản tại Canada, chúng tôi thấy có giới thiệu danh sách những căn bệnh mà theo y học đông phương một hỗn hợp mật ong và quế có thể trị khỏi như trích diễn dưới đây
1-Bệnh tim
Bạn hãy trộn mât ong với bột quế phết lên bánh mì thay cho mứt  và ăn đều đặn mỗi ngày vào bữa điểm tâm, như vậy cholesterol trong máu sẽ giảm và bạn tránh được nguy cơ bị lên cơn đau tim. Những nguời đã bị lên cơn đau tim rồi thì rủi ro bệnh tái phát sẽ không còn. Ngoài ra hơi thở hết bị đứt đoạn cũng như tim đập mạnh hơn. Tại Hoa kỷ và Canada, nhiểu viện dưỡng lão đã chữa trị cho người già bằng phượng cách này và đạt được kết quả tốt. Khi con ngưi tới tuổi già thì các động và tĩnh mạch mất tính đàn hồi và bi nghẽn tắc  và, chính hỗn hợp mật ong và quế đả giúp chúng hổi phục lại
2-Viêm khớp (arthritis)
Người bị bệnh viêm khớp có thể uống mỗi ngày hai lẩn, sáng và tối, một ly nước nóng có pha hai muỗng mật ong và một muỗng nhỏ bột quế. Nếu uống đều như vậy thì bệnh viêm khớp mạn tính cũng có thể chữa khỏi. Trong một nghiên cứu mới đây, Đại học Copenhagen đã phát hiện là những bệnh nhân uống một hỗn hợp (1 muỗng mật ong + nửa muỗng bột quế) mỗi ngày trước bữa điểm tâm thì trong vòng một tuần 73 trong số 200 bệnh nhân đã hoàn toàn khỏi bệnh và sau khoảng một tháng những bệnh nhân trước đó không bước đi  hoặc không  đi lại được có thể bắt đầu đi lại mà không đau đớn,3-Nhiễm khuần bàng quang
Bệnh nhân hãy uống môt ly nước ấm có pha hai muỗng bột quế và một muỗng mật ông, các mẩm bệnh trong bàng quang sẽ bị tiêu diệt4- Cholesterol
Pha 2 muỗng mật ong và 3 muỗng bột quế vào 16 ounces nước trà rổi cho bệnh nhân uống thì mức cholesterol trong máu sẽ giảm 10 phần trăm trong vòng hai tiếng. Đối với người bị viêm khớp thì nếu uống ba lẩn một ngày bệnh cholesterol mạn tính sẽ được chữa khỏi. Mật ong tinh khiết dùng mỗi ngày với thực phẩm có tác dụng tốt lên mức cholesterol trong máu.5- Cảm lạnh
Người bị cảm lạnh nặng nên uống một ly nước ấm có pha một muỗng mật ong và ¼ muỗng bột quế mỗi ngày trong vòng ba ngày. Trong tiến trình này, bệnh ho mãn tính, cảm lạnh vả nghet xoang mũi sẽ được chữa khỏi6-Đau dạ dày
Mật ong và bột quế trị được bệnh đau bao tử và triệt tận gốc các vết loét bao tử (stomach ulcers)7-Đầy hơi
Các nghiên cứu thực hiện tại Ấn và Nhật chừng tỏ là mật ong uống với bột quế có thể làmdạ dẩy hết đẩy hơi8- Hễ miễn dịch
Nếu hàng ngày đểu uống mật ong trộn với bột quế thì hệ miễn dịch sẽ được tăng cường và cơ thể được bảo vệ chống vi khuẩn và vi-rút. Các nhà khoa học đã tỉm thấy nhiểu vitamin và sắt trong mật ong, 9- Khó tiêu
Uống hai muỗng mật ong có rắc bột quế trước bựa ăn làm dạ dày bớt acid và giúp cho sự tiêu hóa các đồ ăn “nặng bụng”10- Cúm
Một khoa học gia Tây ban nha đã chứng tỏ là mật ong có một thành phần tự nhiên có thể giết các mầm bệnh cúm và giúp tránh đươc bệnh cúm11- Sống thọ
Trà làm với mật ong và bột quế ngăn chặn được sư tàn phá cũa tuổi già nếu uống hàng ngày. Nấu trà bẳng cách lấy bốn muỗng mật ong, mộtmuỗng bột quế và ba ly nuớc rồi đun sôi. Uống ba hay bốn  lẩn một ngày, mỗi lẩn ¼ ly, như vây da sẽ tươi mát và tuổi già sẽ chậm tới. Có thể sống tới 100 tuổi, và có sức khoẻ như trẻ 20.12- Mun mủ (pimples)
Trộn thành bột dẻo ba muỗng mật ống với một muỗng bột quế. Bôi bột dẻo này lên các mun mủ trườc khi đi ngủ, sáng dậy rửa sạch bẵng nước ấm. Làm như vậy mỗi ngày trong hai tuẩn bênh sẽ được trị tận gốc.
13- Nhiễm khuẩn da
Trôn mật ong với bột quế với phẩn bằng nhau, rổi bôi lên chỗ da bị nhiễm thì có thể trị đươc viêm da  eczema, nấm da ringworm, và các loại bênh nhiễm khuẩn khác của da14- Giảm cân
Mỗi ngày, nửa giờ trước bữa điểm tâm lúc dạ dày còn trống và buổi tối trước khi đi ngủ, hãy uống mật ong và bột quế đun sôi với một "cup" nước. Nếu uống đểu như vậy, ngay cả nhựng người mập phì cũng sẽ gỉam cân. Ngoài ra đối với nhựng ngưồi ăn theo thực chế nhiểu calori cũng không bị tụ mỡ trong cơ thề.15- Ung thư
Nghiên cứu mới đây tại Nhật và Úc phát hiện là hỗn hợp mật ong và bôt quế có thể trị ung thư dạ dày và ung thư xượng ở tình trạng quá phát triển. Bệnh nhân phài uống mỗi ngày môt muỗng mật ong trộn với một muỗng bột quế trong một tháng, mỗi ngày ba lần16- Mệt mỏi
Nghiên cứu mới đây chứng tỏ là đường trong mật ong tốt cho sức khoẻ chứ không có hại. Người già,uống hỗn hợp đổng đểu mật ong và bột quế mỗi ngày sẽ lanh lẹn hơn.Bác sĩ Milton cho biết nểu uống nửa muỗng mật ong pha trong nước có rắc thêm bột quế mỗi ngày sau khi đánh răng và khoảng 3 giờ chiều khi mà mà sinh khí trong cơ thể bắt đầu giảm  thì người già sẽ tăng cường đươc sức sống trong vòng một tuần lễ17- Miệng hôi
Người dân Nam Phi châu mỗi sáng đểu xúc miệng với nước nóng có pha một muỗng nhỏ mật ong và bột quế để cho hơi thờ được thơm tho mát mẻ suốt ngày18- Lãng tai
Uống hỗn hợp đỗng đểu mật ông và bột quế mỗi ngày, sáng và tối, thì thính giác sẽ được hồi phục.