Thứ Sáu, 25 tháng 2, 2011

Các Triệu chứng không nên coi thường

Các vụ đau đớn hay bệnh tật thông thường rất có thể là chẳng có gì quan trọng... nhưng đôi khi lại vô cùng nghiêm trọng. Vì vậy chúng ta cẩn phải cẩn thận cân nhắc những gì phải làm mỗi khi sự việc xẩy ra cho chúng ta.

1- Khi không (bỗng nhiên) thấy tức thở

Lý do: có thể là do nghẽn mạch phổi (pulmonary embolus).

Nhận xét: Cảm thấy khó thở sau khi tập thể dục hay đang ngồi có thể là do vận động hay do ưu tư lo lắng. Nhưng nếu đột nhiên bị khó thở có thể là do chứng nghẽn mạch phổi do cục đông máu làm nghẹt mạch máu trong phổi. Bệnh này có thể nguy hiểm tới tính mạng. Một lý do khác là tim lên cơn đau hoặc truỵ tim. Cả hai tình huống trên đều làm cho bệnh nhân thở gấp hay khó chịu hoặc cảm thấy thiếu không khí. Cần đưa bệnh nhân đi cấp cứu.

2- Tim đập rộn trong khi đang ngồi yên

Lý do: có thể là do lên cơn đau tim (heart attack).

Nhận xét: Đánh trống ngực (palpitations) có thể chỉ là vì ưu tư lo lắng, nhưng cũng có thể là dấu hiệu của cơn đau tim hay chứng loạn nhịp tim (arrhythmia). Nên liên lạc với bác sĩ ngay.

3- Choáng váng chóng mặt khi ra khỏi giường

Lý do: có thể là do huyết áp thấp.

Nhận xét: Chóng mặt vào buổi sáng được gọi là "huyết áp thế đứng thấp" (orthostatic hypotension) gây ra bởi sự loại nước (dehydration), bệnh tiểu đường, bệnh Parkinson, bệnh trụy tim, hay thuốc men bao gồm cả thuốc lợi tiểu và thuốc huyết áp. Một lý do khác có thể là chứng "chóng mặt tư thế nhẹ" (benign positional vertigo) gây ra bởi sự xáo trộn của các bộ phận cân bằng của tai trong. Nên đi gặp bác sĩ để chẩn đoán.

4- Nước tiểu rò rỉ

Lý do: có thể là do chứng són đái (urinary incontinence) mà nguyên nhân không phải vì lão hoá, nhiểm khuẩn đường tiểu (urinary tract infection-UTI) , bệnh tiền liệt tuyến, dây thẩn kinh bị ép. hoặc tiểu đường.

Nhận xét: đi gặp bác sĩ để chẩn đoán.

5- Đầu đau như búa bổ

Lý do: có thể là do xuất huyết não.

Nhận xét: Trong phần lớn trường hợp đó là triệu chứng của chứng nhức nửa đầu (migraine) chỉ cần uống thuốc giảm đau và nghỉ ngơi là hết. Nhưng một vài trường hợp hiếm xẩy ra là chứng nhức đầu có thể là dấu hiệu có khối u hay xuất huyết trong não. Cẩn đặc biệt chú ý là khi bị đau nhiều nửa bên đầu một cách đột ngột và kéo dài mà lại kèm theo buồn nôn, ói mửa, và chảy nước mắt. Trong trường hợp sau này phải đi bệnh viện gấp.

6- Mắt bị sưng vù

Lý do: có thể là do viêm dây thần kinh mắt (optic neuritis).

Nhận xét: Dây thần kinh mắt có thể bị nhiễm khuẩn hay bị dị ứng. Nếu chữa sớm thì không hại gì cho mắt vì vậy cần đi bác sĩ khẩn cấp.

7- Tai đau và mắt nhìn thấy hai hình (song thị)

Lý do: có thể do tai giữa bị nhiễm khuẩn.

Nhận xét: Bệnh có thể trở thành nghiêm trọng bất ngờ vì vậy cần đi bác sĩ cấp thời nếu chứng đau không dứt và/hoặc có bị thêm chóng mặt lảo đảo, nhức đầu, ói mửa, song thị, nửa ngủ nửa thức, cổ cứng đơ, sưng ở sau tai, sốt nhiều và liệt mặt.

8- Tự nhiên giảm sút ký

Lý do: có thể là do ung thư.

Nhận xét: Nếu ăn uống vẫn bình thường như cũ mà đột nhiên bị sút cân thì có thể là bị bệnh ác tính. Một nguyên nhân khác cũng có thể là do sự bất bình thường nội tiết (endocrinic abnormality) như bệnh tuyến giáp trạng (thyroid disorder), trầm cảm hay tiểu đường. Nên đi gặp bác sĩ ngay để chẩn đoán.

9- Đột nhiên đau háng

Lý do: có thể là do tinh hoàn bị xoắn.

Nhận xét: Đây là một khuyết tật bẩm sinh khá thông thường. Ống dẫn tinh trùng bị xoắn làm máu không chạy tới tinh hoàn. Cơn đau cũng giống như bị đá vào háng. Đôi khi ngoài cơn đau còn thấy bị sưng nữa. Trong vòng 4 hay 6 tiếng thì còn cứu được, chứ trễ từ 12 đến 24 tiếng thì coi như phải cắt bỏ. Một nguyên nhân khác có thể là nhiểm khuẩn mào tinh hoàn (epididymis) tức là bộ phận trữ tinh trùng. Trong trường hợp này có thể dùng trụ sinh để chữa trị.

10 - Đau nhói gan bàn chân

Lý do: có thể là do bệnh thần kinh (neuropathy).

Nhận xét: Đau nhói cứ tái phát ở bất cứ chỗ nào trên cơ thể có thể là do sự nén ép dây thần kinh, tăng thông khí phổi (hyperventilation) hoặc bệnh thần kinh. Liên lạc với bác sĩ càng sớm càng tốt.

11- Vết thâm tím mãi không tan

Điều gì xẩy ra: bệnh tiểu đường.

Nhận xét: Vết đứt hay thâm tím chậm lành có thể là dấu hiệu của bệnh tiểu đường (dấu hiệu khác gồm có da bị ngứa hoặc đau nhói bàn tay hay bàn chân). Nên tìm cách giảm cân (giảm 10 phẩn trăm trọng lượng ảnh hưởng đáng kể lên mức đường trong máu), tập thể dục và coi chừng thói quen ăn uống.

12 - Răng đau buốt khi ăn sôcôla

Điều gì sẽ xẩy ra: viêm lợi.

Nhận xét: Một trong những dấu hiệu đầu tiên của sâu răng là nhạy cảm với đồ ngọt. Dấu hiệu đầu tiên khác là răng mất mầu và có mùi khi cà răng. Kỹ thuật laser có thể phát hiện sớm các ổ răng sâu và tiêu diệt các vi khuẩn trước khi làm sâu răng.

13 - Vòng eo rộng 42 inch (#106,68 cm)

Điều gì sẽ xảy ra: bất lực.

Nhận xét: Có thể bây giờ chưa có vấn đề nhưng trong tương lai bạn có thể bị loạn năng cường dương (erectile disfunction). Nguyên do là vì khi đàn ông quá mập các động mạch thường hay bị nghẹt nên dòng máu không đủ làm cho cương. Hãy tập thể dục đều cho đến khi eo thon lại, thắt vừa dây lưng 34 inch (#86,36 cm).

14 - Mắt thoáng không thấy gì - chỉ trong một giây

Lý do: có thể là do đột quỵ (stroke).

Nhận xét: Các yếu tố rủi ro chính của đột quỵ là cao huyết áp (trên 140/90) và cholesterol toàn phần cao hơn 200. Bị tê một bên người và tạm thời hai mắt không nhìn thấy gì là những dấu hiệu đáng chú ý nhất. Đột nhiên bị tê, nói líu lưỡi, hay mất thăng bằng có thể là bẳng chứng của một cơn đột quỵ nhẹ gọi là đột quỵ thiếu máu cục bộ đoản kỳ (transient ischemic attack- TIA). Đột quỵ nhẹ này thường báo trước một đột quỵ thật sự nên khi có triệu chứng của TIA thì phải gặp bác sĩ ngay.

15 - Có cảm giác như bị ợ nóng (heartburn)

Lý do: có thể là do chứng đau thắt (angina).

Nhận xét: Đau ngực cả hàng giờ, lúc có lúc không, được bác sĩ gọi là "hội chứng mạch vành không ổn định" (unstable coronary syndrome). Nguyên nhân là vì các cục đông máu được tạo thành bên trong thành động mạch vành ngay tại chỗ mảng (plaque) bị bể vỡ. Khoảng 50 phẩn trăm những người có hội chứng trên đây sẽ bị lên cơn đau tim trong vòng 6 tháng sau. Mỗi khi thấy đau thắt ngực, cần phải đi bệnh viện.

16 - Đau lưng nhiều

Lý do: có thể là do chứng phình mạch (aneurysm).

Nhận xét: Đau cũng tương tự như vừa dọn dep xong tủ quẩn áo bề bộn. Thế nhưng chườm nóng, nghỉ ngơi, uống thuốc giảm đau thông thường lại không khỏi. Nếu không phải vì tập thể dục thì đau lưng bất chợt như vậy có thể là dấu hiệu của chứng phình mạch. Chứng đau này chỉ hết khi động mạch chủ bị bể. Một nguyên nhân khác của chứng đau lưng này - kém phần nguy hiểm hơn - là sạn thận. Bác sĩ cho chụp CT scan để xác định vị trí và hình dạng của chỗ mạch phình, sau đó cho uống thuốc huyết áp hay giải phẫu ghép nối nhân tạo.

17- Ngồi lâu trên ghế không yên

Lý do : có thể do các cơ lưng bị căng thẳng.

Nhận xét : Nếu cứ phải thay đổi vị thế ngồi luôn tức là có dấu hiệu các cơ lưng bị căng thẳng và điều này có thể dẫn đến đau lưng dưới. Cẩn phải lựa chọn ghế ngồi cho thoải mái, sao cho đầu ở vị trí ngay đối với cột sống để giảm tối thiểu sức căng thẳng trên cổ, vai và lưng dưới.

18 - Bạn mới biết thân phụ bị cao huyết áp

Điều gì sẽ xảy ra: bạn cũng sẽ bị cao huyết áp luôn.

Nhận xét: Vì bệnh cao huyết áp vừa phải không có dấu hiệu bên ngoài nên cẩn phải đo huyếp áp mỗi năm một lần, nhất là nếu trong gia đình có tiền sử bị cao huyết áp. Nghiên cứu cho thấy là những người bị căng thẳng tinh thần vì cha mẹ mắc bệnh cao huyết áp cũng có nhiểu rủi ro bị bệnh này luôn. Nếu số đo huyết áp cao hơn 140/90, bạn nên tập thể dục nhiều hơn, tìm cách sụt cân, giảm sodium trong chế độ ăn uống, ăn loại cá tốt cho tim, uống nhiều vitamin C.

19 - Tay bị run khi tập thể dục

Lý do: có thể là do cơ bắp bị mỏi mệt.

Nhận xét: Nếu bạn đã bỏ tập cả nhiều tháng thì cơ bắp bị run có thể là vì mệt mỏi. Vì vậy khi mới tập trở lại bạn nên tập vừa phải, đừng tập quá mệt. Bạn hãy ngưng tập khi cảm thấy các cơ bắp bắt đầu run.

20 - Trong bàn tiệc bạn thấy mọi thứ đều quay cuồng

Lý do: do bạn đã quá chén.

Nhận xét: Rượu làm suy yếu hệ thần kinh trung ương. Vì vậy nếu bạn uống quá nhiều, tất cả những gì trong cơ thể có liên quan tới hệ này sẽ đều bị suy yếu: trí phán đoán, khí sắc, khả năng phối hợp và quân bình, sự nhạy cảm với đau đớn, khả năng sinh dục... Bạn nên tránh đừng uống rươu nhiều. Bạn nên nhớ là nếu nồng độ rượu trong máu hơn 0.06 phần trăm là trên pháp lý bạn đã bị coi như là say rượu.

21- Đau dai dẳng ở bàn chân và cẳng chân

Lý do: nhiều triển vọng là do gãy xương vì sức nén (stress fracture).

Nhận xét: Cũng giống như các mô khác trong cơ thể, xương tự tái tạo. Nhưng nếu bạn tập thể dục quá mạnh, xương không có cơ hội để lành trở lại nên một vết gẫy vì sức nén (stress fracture) sẽ có thể xuất hiện. Vì thế mu bàn chân và phía trước cẳng chân sẽ đau dai dẳng. Bạn càng tập thể dục thì càng đau và ngay cả khi ngưng nghỉ cũng đau. Uống thuốc ibuprofen hay paracetamol không ăn thua gì. Thuốc mầu phóng xạ cho thấy chỗ xương gẫy qua hình chụp tia X, và bác sĩ sẽ bắt bạn phải nghỉ tập cho đến khi xương lành. Trường hợp xấu nhất là bạn phải bó bột vài tuần.

22 - Đau như cắt ở bụng

Lý do: Vì vùng giữa xương sườn và háng có kẹt đầy các bộ phận nên đau có thể là triệu chứng hoặc của viêm ruột thừa, viêm tụy tạng hoặc của túi mật bị sưng. Cả ba trường hợp đểu có cùng một nguyên nhân: vì một lý do nào đó các bộ phận này đã bị nhiễm khuẩn nguy hại đến tính mạng.

Nhận xét : Nếu để bộ phận nói trên bể vỡ ra thì bệnh nhân có thể bị chết, vì vậy cẩn đi bệnh viện cấp thời.

23- Cẳng chân bị đau và sưng to

Lý do: có thể là do chứng huyết khối tĩnh mạch sâu (deep vein thrombosis - DVT).

Nhận xét: Chỉ cẩn ngổi một chỗ liền chừng 6 tiếng hay hơn là máu sẽ tụ ở cẳng chân dưới tạo thành cục đông máu (gọi là chứng huyết khối tĩnh mach sâu). Cục đông máu đủ lớn sẽ làm nghẹt tĩnh mạch bắp chân gây đau và sưng. Xoa cẳng chân là điểu đầu tiên bạn sẽ làm nhưng cũng là điều tệ hại nhất vì cục đông máu lớn có thể chạy ngược lên phổi, điều nầy gây nguy hiểm đến tính mạng của bạn. Muốn chụp hình tia X để định bệnh DVT bác sĩ phải chích chất mẩu vào tĩnh mach. Bác sĩ sẽ cho thuốc làm tan cục đông máu hoặc đặt cái lọc vào tĩnh mạch để chặn cục đông máu không cho chạy lên phổi.

24 - Tiểu tiện bị đau

Lý do: có thể là do ung thư bàng quang (bọng đái).

Nhận xét: Rặn tiểu là cả một cực hình và nước tiểu lại có màu rỉ sắt. Đau và máu trong nước tiểu là hai triệu chứng của ung thư bàng quang. Hút thuốc là yếu tố rủi ro bị bệnh lớn nhất. Nếu khám phá sớm bệnh có 90 phẩn trăm triển vọng được chữa khỏi. Nhiễm khuẩn bàng quang cũng có cùng các triệu chứng như trên.

Mai Phương sưu tầm
Nguồn: MedMD

Viêm amiđan

Do nằm ở cửa ngõ đường thở nên amiđan rất dễ bị viêm nhiễm. Nếu như trước đây, phần lớn bệnh nhân được cắt amiđan thì hiện nay, phẫu thuật này được chỉ định khá chặt chẽ, chỉ áp dụng trong những trường hợp chẳng đặng đừng.
Amiđan là tập hợp mô lympho ở hai bên thành họng sau khoang miệng, có vai trò bảo vệ, chống nhiễm khuẩn. Viêm amiđan gồm các thể sau:
Viêm amiđan cấp tính không đặc hiệu
Biểu hiện trước tiên là đau họng kèm theo sốt nhẹ, chảy nước mũi, hắt hơi kèm theo chảy nước mắt. Tại chỗ 2 amidan viêm sưng to quá phát kèm theo viêm đỏ lan tỏa vùng họng. Xét nghiệm cận lâm sàng công thức máu số lượng bạch cầu thường không tăng. Những trường hợp này thường viêm do virus cúm A, B, C hoặc á cúm (adeno virus, rhinovirus, ecpet...).
Cần hạn chế sử dụng kháng sinh và nên dùng một số thuốc điều trị triệu chứng như: chống phù nề, giảm đau kèm theo kháng histamin. Vệ sinh mũi họng bằng các dung dịch sát khuẩn nhẹ như: angispray, eludril, locabiotal, givalex...
Viêm amiđan cấp tính đặc hiệu do vi khuẩn
Các triệu chứng trên lâm sàng thường gặp là sốt cao đột ngột, đau họng tăng, thường đau lan tỏa vùng tai kèm theo hạch lân cận sưng to, người mệt mỏi. Khám tại chỗ thấy amidan viêm to kèm theo các hốc mủ, miệng hôi, xuất hiện màng giả tại amiđan. Các xét nghiệm máu thấy số lượng bạch cầu tăng cao. Tác nhân gây bệnh thường gặp là liên cầu khuẩn, tiếp đến là xoắn khuẩn (có màng giả kèm theo loét hoại tử); có trường hợp do săng giang mai (khám thấy vết trợt nông tròn hoặc bầu dục, không có mủ).
Những trường hợp xét nghiệm xác định được loại vi khuẩn gây bệnh, cần dùng kháng sinh đặc hiệu để điều trị tốt căn nguyên.
Phẫu thuật cắt bỏ amiđan hiện được chỉ định khá chặt chẽ bởi liệu pháp kháng sinh đặc hiệu đã đem lại kết quả tốt. Nó chỉ được áp dụng khi amiđan viêm mạn tính kéo dài, tái phát thường xuyên hằng tháng, ảnh hưởng tới đời sống; hoặc đã có tiền sử viêm tấy quanh amiđan, xuất hiện hội chứng ngạt thở khi ngủ. Đối với trường hợp viêm cầu thận cấp do viêm amiđan, sau khi điều trị viêm cầu thận cấp ổn định, người bệnh cũng cần được cắt bỏ amiđan.
TS Nguyễn Hữu Nghĩa, Sức Khỏe & Đời Sống

Viêm Amiđan là một trong những bệnh tai mũi họng thường gặp ở trẻ em và người lớn. Viêm amiđan có thể là viêm cấp, viêm amiđan cấp tái hồi, viêm Amiđan mạn, viêm tấy hoặc áp xe quanh Amiđan.

Viêm Amiđan cấp là tình trạng viêm nhiễm khuẩn giới hạn ở Amiđan do vi khuẩn hoặc siêu vi khuẩn. Vi khuẩn gây bệnh chủ yếu là liên cầu trùng tan huyết Bêta nhóm A, đây là tác nhân gây sốt thấp khớp có thể gây biến chứng ở van tim và viêm vi cầu thận cấp. Trẻ lớn và người lớn viêm Amiđan thường do vi khuẩn trong đó liên cầu nhóm A là hay gặp nhất.  Các siêu vi trùng gây nhiễm khuẩn hô hấp trên có thể gây viêm Amiđan cấp với tỷ lệ thấp.

Bệnh nhân bị viêm Amiđan cấp có triệu chứng: sốt cao, rét run, đau họng, vướng họng , ăn uống khó khăn, hơi thở hôi, sưng hạch dưới hàm, hạch cổ trước, nhức đầu, mệt mỏi, đau nhức cơ, khớp…..nếu không được điều trị kịp thời có thể bị các biến chứng như viêm tấy quanh Amiđan, áp-xe ( tụ mủ) quanh Amiđan, áp xe Amiđan , áp xe hạch cổ viêm tai giữa, viêm mũi xoang, viêm thanh quản, viêm khí - phế quản , đặc biệt viêm Amiđan do liên cầu trùng có thể gây biến chứng sốt thấp khớp, thấp tim, viêm vi cầu thận, nhiễm trùng huyết, sốc nhiễm độc tố liên cầu nhóm A ( Sốt, hạ huyết áp, suy thận, suy hô hấp cấp và tử vong rất nhanh).

Bệnh nhân bị viêm Amiđan mạn  biểu hiện bằng những đợt viêm Amiđan cấp tái hồi, giữa các đợt này  thường có phản ứng viêm dai dẳng hơn 4 tuần nhưng không rầm rộ. Vi khuẩn gây bệnh chủ yếu là vi khuẩn gram dương hay gặp là liên cầu tan huyết Bêta nhóm A. Viêm Amiđan mạn  thường xảy ra ở người lớn và trẻ lớn.

Viêm Amiđan mạn tính trong đợt cấp tái hồi có triệu chứng chủ yếu như đau họng tái đi tái lại, sốt nhẹ, mệt mỏi, đau nhức xương khớp, hạch cổ to lên, hơi thở hôi. Ngoài đợt tái hồi bệnh nhân có các triệu chứng kéo dài như khó nuốt, đau tai, hạch cổ to, hôi miệng, khạc ra chất bã đậu hôi. Khi khám thấy Amiđan to hoặc teo, nhưng bề mặt Amiđan có nhiều chấm trắng như bã đậu.

Viêm amiđan mạn tính ở trẻ em thường làm amiđan to (gọi là quá phát) có thể gây rối loạn hô hấp (ngủ ngáy ), rối loạn phát âm (giọng nói đục, hoặc ồm ồm), rối loạn nuốt ( nuốt khó và dễ bị ọc, ói)…các rối loạn này nếu không được xử trí sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển thể chất và tinh thần của trẻ.

Viêm amiđan là một bệnh có thể gây ra nhiều biến chứng và di chứng nguy hiểm.  cần phải được điều trị sớm, nên bắt đầu bằng điều trị thuốc trong trường hợp viêm Amiđan cấp họặc đợt cấp tái hồi của viêm Amiđan mạn , mỗi đợt dùng thuốc khoảng 10 ngày do các BS Tai Mũi Họng điều trị và theo dõi. Cắt Amiđan là phương pháp điều trị hữu hiệu khi được chỉ định chính xác nhằm lọai bỏ tổ chức Amiđan không còn vai trò miễn dịch và trở thành một ổ viêm chứa đầy các lọai vi khuẩn  hoặc quá phát bít tắc hô hấp trên hoặc nghi ngờ phát triển thành u ác tính.

Cụ thể, nên cắt amiđan trong các trường hợp sau đây:

1. Viêm Amiđan mạn tính có 4 đợt tái phát trong 1 năm.Viêm Amiđan mạn tính kéo dài đã được điều trị nội khoa tích cực trong vòng 4 – 6 tuần bệnh nhân vẫn đau họng, viêm hạch cổ , hơi thở hôi.

2. Ápxe quanh Amiđan ít nhất một lần phải nhập viện điều trị .

3. Viêm Amiđan gây biến chứng sốt thấp khớp, viêm vi cầu thận hoặc gây viêm tai giữa, viêm xoang….tái đi tái lại nhiều lần .

4. Amiđan quá phát bít tắc hô hấp trên gây ngủ ngáy, ngủ không yên giấc, có những cơn ngưng thở trong lúc ngủ, bất thường về phát âm, khó nuốt, chậm phát triển thể chất.

5. Amiđan chỉ to một bên kèm sưng hạch cổ cùng bên nghi ngờ ung thư amiđan.

6. Có thể cắt amiđan ở bất kỳ lứa tuổi nào nhưng thường sau 4 tuổi. Tuy nhiên có trường hợp trẻ nhỏ hơn vẫn phải cắt Amiđan khi Amiđan quá to gây những cơn ngưng thở trong lúc ngủ hoặc gây biến chứng.

Chú ý: Không được cắt Amiđan ở những bệnh nhân có rối lọan đông cầm máu bẩm sinh hoặc mắc phải ( Hemophilia A, B, C ; suy tủy, xuất huyết giảm tiểu cầu, ung thư máu…)

Trì hoãn cắt amiđan khi bệnh nhân đang có nhiễm khuẩn toàn thân hoặc tại chỗ, có bệnh mạn tính điều trị chưa ổn định (tiểu đường, lao, cường giáp…) hay ở vùng đang có bệnh dịch; phụ nữ có thai hoặc đang hành kinh…

Để hạn chế viêm Amiđan phải chú ý giữ gìn vệ sinh, giữ ấm vùng mũi họng , tránh môi trường sống ô nhiễm, tránh dùng những thức ăn quá nóng hoặc quá lạnh, vệ sinh răng miệng sau khi ăn, súc miệng bằng nước muối pha loãng (một muỗng cà phê muối pha với nửa lít nước). Không nên pha quá mặn sẽ làm hư niêm mạc họng.

Chúc bạn sức khỏe!
Bs.Thuocbietduoc

Cắt amidan và nạo VA: Không nên chỉ định rộng rãi









TT - Hiện nay ở một số cơ sở y tế, hễ bệnh nhân viêm amidan là bác sĩ (BS) chỉ định cắt (1,5 - 2 triệu đồng/ca hoặc cao hơn) mà không qua một khâu duyệt mổ nào.


Nạo VA, cắt amidan không phải không có biến chứng. Sau cắt, "hàng rào" ở cửa ngõ này không còn, điều gì sẽ xảy ra? BS Nguyễn Thị Ngọc Dung - giám đốc Bệnh viện Tai mũi họng TP.HCM - cho biết:
- VA là khối tế bào lympho nằm ở vòm phía sau mũi. Amidan là hai khối lympho nằm hai bên họng miệng - còn gọi là amidan khẩu cái. VA và amidan có vai trò tạo ra kháng thể giúp đề kháng vi trùng vào cơ thể qua vùng họng và mũi nhưng khi viêm nhiễm nhiều lần thì chức năng này giảm và ảnh hưởng đến sức khỏe. Ở trẻ em, viêm amidan cấp nhiều lần có thể viêm thận, viêm khớp, viêm nội tâm mạc. Còn viêm VA mãn tính có thể gây nhiễm trùng tai và giảm thính lực.
Về điều trị, trước đây khi kháng sinh chưa có nhiều, chỉ định cắt amidan và nạo VA rất rộng rãi. Ngày nay đã có nhiều loại kháng sinh có tác dụng phổ rộng và trên các loại vi khuẩn kháng thuốc, vì vậy nên điều trị tích cực trước khi có chỉ định phẫu thuật.
* Vậy nạo VA, cắt amidan khi nào? Về nhà còn chảy máu thì phải làm gì? 
- Amidan và VA được phẫu thuật khi viêm mãn tính và tái phát nhiều lần (trên năm lần trong một năm). VA cũng vậy, chỉ nạo khi gây viêm tai giữa và viêm xoang, làm nghẹt thở và ảnh hưởng đến giấc ngủ. Đối với amidan to đơn thuần, không viêm, không gây biến chứng thì không nên cắt, trừ trường hợp hiếm có là khối lượng amidan quá to gây vướng, khó nuốt, khó thở (ngáy to lúc ngủ).
Phẫu thuật thường được thực hiện ở trẻ em nhưng cũng có khi ở người lớn nếu bị viêm mãn tính. Biến chứng sau cắt amidan và nạo VA ít gặp, thường là biến chứng chảy máu trong khi cắt, ngay sau khi cắt hoặc vài ngày sau khi cắt. Thông thường BS có thể xử trí cầm máu nếu bệnh nhân đến ngay bệnh viện.      
Về lứa tuổi, cắt amidan khi trẻ trên 8 tuổi (trừ trường hợp dưới 8 tuổi nhưng amidan quá lớn gây khó ngủ, ngưng thở). Cắt quá sớm sẽ giảm khả năng miễn dịch. Còn người lớn không giới hạn, có thể ở tuổi 50-60. Nhưng ở người có tuổi mạch máu bị xơ nên khi cắt khả năng chảy máu sẽ nhiều hơn.
* Nhiều bà mẹ cho rằng con mình gầy do viêm amidan, đưa đi cắt cho... mập ra?    
- Quan điểm này là sai, nếu do thể tạng, do hấp thu kém thì dù cắt amidan cũng không mập được. Ở trẻ em, viêm mũi viêm họng là chuyện thường tình, nếu sau ba ngày không hết thì phải đi BS. Đừng tự chẩn đoán bệnh.
Nên nhớ sau khi cắt amidan, vùng họng giảm đề kháng nên bệnh nhân dễ bị viêm họng hơn. Ở những cháu được cắt amidan không có lý do chính đáng, sau khoảng sáu tháng - một năm các lympho ở họng phát triển một cách lung tung để bù trừ lại những bộ phận bị cắt bỏ một cách vô cớ.
* Nhưng hiện nay ở một số bệnh viện BS cứ thấy amidan viêm là cắt. Có tiêu chuẩn nào để giới hạn các chỉ định bừa bãi?
- Không nên chỉ định cắt amidan và nạo VA quá rộng rãi. Phải dựa trên những triệu chứng thực thể  được BS chuyên khoa tai mũi họng khám và nội soi, chứ không dựa trên triệu chứng chức năng (thấy đau họng, khạc...).
BS cần khám kỹ và thận trọng khi chỉ định cắt. Tại BV Tai mũi họng tất cả trường hợp mổ cắt amidan đều phải qua trưởng khoa, ban giám đốc duyệt. Nếu như một amidan viêm đợt cấp thì phải trên năm lần/năm hoặc bốn lần/năm mà liên tục trong hai năm, hoặc ba lần/năm mà liên tục trong ba năm. Phải điều trị rất tích cực, nếu dùng thuốc không giảm thì mới cắt. Cần lưu ý là viêm amidan phải rõ ràng và được BS xác định chứ không phải do người bệnh tự chẩn đoán.      
* Để phòng bệnh, chúng ta nên làm gì?
- Cần giữ ấm, không để bị nhiễm lạnh - nhất là ở trẻ em hạn chế uống nước đá lạnh. Người lớn cần giữ vệ sinh răng miệng, khò họng bằng nước muối ấm (hai muỗng cà phê muối/1 lít nước).                                                                                        
KIM SƠN ghi

Tiểu sử Ueshiba Morihei, người sáng lập Aikido

Tổ sư Ueshiba Morihei sinh ngày 14/12/1883 tại một thành phố nhỏ tên Tanabe (1) gần Osaka. Tổ sư đại hoàn nguyên vào ngày 26/04/1969. Khi đó Hombu dojo là một toà nhà ba tầng lớn và môn Aikido được hàng trăm ngàn người theo học ở khắp năm châu.

 
 
Từ một cậu bé gầy còm bệnh hoạn

Tổ sư Ueshiba Morihei sinh ngày 14/12/1883 tại một thành phố nhỏ tên Tanabe (1) gần Osaka. Ông là con trai thứ tư của một tiểu điền chủ tên Ueshiba Yoroku, với một sản nghiệp gần 20 sào đất. Cụ Ueshiba Yoroku có chân trong hội đồng thị chính, đồng thời cũng là một nhân vật có tên tuổi trong thành phố Tanabe.

Thuở thiếu thời, Tổ sư Ueshiba Morihei là một cậu bé thể chất yếu đuối, hay bệnh hoạn và dễ xúc cảm. Năm 7 tuổi, cậu học chữ với một vị sư Phật giáo tên Fujumoto Mitsujo. Vào giai đoạn này thường có những chuyện hoang đường được lưu hành trong vùng Kumano. Những câu chuyện này do Kobodaishi từ Trung Quốc về thuật lại và chúng gây ấn tượng sâu sắc vào tâm trí của cậu Morihei khiến cậu miên man trong những mộng tưởng vô tận. Cha cậu rất lo lắng vì khuynh hướng mơ mộng của cậu bé, và cũng để tăng cường thể lực cho cậu nên bắt Ueshiba Morihei tập sumo (2) và bơi lội. Trong những năm đầu tiên học tiểu học, cậu Morihei còn nhận được ảnh hưởng đào tạo của thầy giáo mình là Nasu Tasaburo, trên cả hai phương diện thể xác và tinh thần. Vị này về sau trở thành một nhân vật quan trọng trong lĩnh vực tôn giáo.

Năm lên 13 tuổi cậu vào trường trung học Tanabe nhưng chỉ lưu lại ở đó một năm vì sở thích của cậu là học soroban (3). Ueshiba Morihei có năng khiếu đặc biệt trong môn này và chỉ không đầy một năm sau, cậu tiến bộ đến mức trở thành phụ tá giảng viên. Sau đó cậu vào làm cho nhân viên sở thuế Tanabe. Tại đó, cậu phụ trách về thuế điền thổ. Trong lúc làm công việc thu thuế cậu cũng lưu tâm đến các vấn đề của nông dân và ngư dân và cảm thấy bất bình vì những điều kiện làm việc của họ. Cậu tham gia vào những cuộc biểu tình đòi cải tổ, thay đổi một sắc luật mới về ngư nghiệp. Sau những đàn áp gắt gao, cậu xin từ nhiệm và lên thủ đô Tokyo. Thoạt tiên, cậu làm một chân chạy việc trong một cửa hiệu bán sỉ. Vào mùa xuân 1902, Ueshiba thuê một gian hàng tại Asakusa dưới bảng hiệu Ueshiba Shokai (4) để bán văn phòng phẩm cho các học sinh, sinh viên, trong khu vực.

Vào thời điểm này, sự lưu tâm của Ueshiba đối với võ đạo ngày càng tăng. Sau giờ đóng cửa tiệm, chàng chú tâm nghiên cứu các kỹ thuật xưa của Jujutsu, đặc biệt là kỹ thuật môn phái Kyto với võ sư Tozawa; đồng thời chàng cũng tập Kenjutsu (5) tại một đạo đường của phái Shinkage (6). Sau ít tháng, Ueshiba Morihei bị bệnh phù thủng và phải trở lại Tanabe, nơi làng quê của chàng. Tại đó, Ueshiba Morihei kết duyên với một cô bạn thời niên thiếu là Itokawa Hatsu.

Từ lúc trở về quê, Ueshiba Morihei thề quyết tạo cho mình một thân hình cường tráng, lực lưỡng. Chàng khổ công theo đuổi một chương trình huấn luyện khắc nghiệt và tiệm tiến, dựa trên điều kiện sức khoẻ và lực cơ bắp. Lúc hai mươi tuổi, dù có một chiều cao nhỏ bé (1m54), Morihei có một sức mạnh trên người bình thường rất nhiều. Nhưng sức mạnh thể xác thuần tuý vẫn không làm chàng thoả mãn, do đó chàng đến Sakai (7) để học hỏi kiếm thuật của môn phái Yagyu (8) với thầy Nakai.

Năm 1903, tình hình giữa Nga và Nhật trở nên căng thẳng, Ueshiba đăng ký vào trung đoàn bộ binh 61 đồn trú tại Osaka. Chẳng bao lâu, chàng trở thành vô địch trong tất cả các môn luyện tập và đặc biệt là môn Ju ken jutsu (9).

Trung đoàn của Ueshiba Morihei được gởi đến mặt trận Mãn Châu. Tại đó, tác phong gương mẫu của chàng khiến cấp trên lưu ý và chàng được thăng cấp trung sĩ. Khả năng chiến đấu của chàng kỳ diệu đến nỗi các chiến hữu đặt cho chàng biệt danh là “Heitai no kami sama” (10). Lúc chàng được giải ngũ, vị chỉ huy của chàng khuyên chàng vào trường huấn luyện sĩ quan để theo nghiệp binh. Ueshiba Morihei từ chối đề nghị này và về quê nhà để lo việc đồng áng. Trong suốt bốn năm chiến tranh, chàng không ngừng tập luyện võ thuật và vẫn tiếp tục liên lạc với võ sư Nakai, thuộc môn phái Yagyu. Sau đó chàng nhận được bằng của môn phái vào năm 1908.

Trong thời gian này, Ueshiba Morihei tràn đầy sinh lực và chú tâm đến các vấn đề chính trị, xã hội trong vùng. Chàng thiết lập một cơ sở tương tự như một câu lạc bộ sinh hoạt thanh niên. Tại đây chàng thiết lập một võ đường để tập luyện Judo với một võ sư tam đẳng vừa mới đến cư ngụ trong thành phố. Vị này, tên Kiyoichi Takagi, sau này trở thành cửu đẳng huyền đai nhu đạo.

Trở thành Vua “Shirataki”

Năm 1910, chính phủ Nhật muốn khai thác và di dân đến vùng Hokkaido nên kêu gọi những người tình nguyện đi di dân lập nghiệp, Tổ sư Ueshiba Morihei nhận thấy chương trình đó bổ ích nên tập họp một nhóm 80 người để lên đường như những kẻ tiên phong. Sau một cuộc hành trình dài hai tháng, họ đến Hokkaido và hạ trại tại một nơi mà sau này trở thành ngôi làng Shirataki. Sau hai năm khai hoang và lao động vất vả, và họ bắt đầu gặt hái thành quả và quyết định định cư tại đó. Tổ sư Ueshiba Morihei là một người rất dồi dào sáng kiến: ông nghĩ ra việc trồng cây bạc hà, thiết lập một cơ sở khai thác lâm nghiệp. Ông cũng đầu tư vào việc chăn nuôi bò, ngựa và dựng lên tổ hợp chế biến sữa. Với sự thúc đẩy của ông người ta đã dựng lên một trung tâm thương mại, một ngôi trường và một bệnh xá. Ông cũng đã đóng góp vào việc mở mang ngôi chùa Shirataki.

Tháng 2/1925, trong chuyến du hành đến Engaru, ông gặp vị đại sư của môn phái Daito tên Takeda Sokaku tại khách sạn Kubota. Đại sư Takeda nhận ra ngay ở chàng thanh niên này một nhân cách phi phàm và ông quyết định truyền thụ lại tất cả các bí quyết của môn phái Daito Ryu (11). Dù thoạt tiên chỉ ghé qua đây, Tổ sư Ueshiba Morihei quyết định kéo dài thời gian và lưu lại một tháng để luyện tập với vị thầy mới của mình.

Sau khi trở lại Shirataki, người mở một đạo đường và mời thầy Takeda đến dạy. Người xây cả một ngôi nhà cho thầy mình và chu cấp mọi nhu cầu cho ông ta. Khi nhận được văn bằng đặc biệt của trường phái Daito Ryu thì Tổ sư đã chỉ học với đại sư Takeda vỏn vẹn có một trăm ngày. Thời gian còn lại dành cho việc luyện tập cá nhân.

Tháng 6/1918, người ta đề nghị ngài ra ứng cử vào Hội đồng thành phố và ngài đắc cử chức uỷ viên. Cũng vào dạo đó, do sáng kiến của ngài, người ta bắt đầu xây dựng đường xe lửa Hokkaido.

Tháng 11/1919, ngài nhận được tin xấu về tình trạng sức khoẻ của thân phụ. Rất xúc động, ngài quyết định bỏ lại tất cả của cải và cùng với gia đình trở về Tanabe.

Trên đường về, ngài nghe đồn tại vùng Ayabe có một vị đại sư có nhiều quyền lực tinh thần tên là Deguchi Onisaburo, Tổ sư Ueshiba Morihei quyết định tạt lại thăm đại sư Deguchi để xin ông ta cầu an cho thân phụ mình. Người cảm thấy cần phải có cuộc gặp gỡ này trong lúc đang trải qua thử thách, vì nhận thức rằng dù mình võ nghệ và khí lực tuyệt luân nhưng sức mạnh tinh thần thì vẫn mơ hồ và yếu đuối và dễ bị chao đảo khi gặp một thử thách tâm lý.

Thân phụ của người mất ngày 2/1/1920 và người chỉ về đến nhà ở Tanabe hai ngày sau đó.

Cái chết của thân phụ làm Tổ sư Ueshiba Morihei rất phiền não, ngài trải qua nhiều tháng trầm tư và quyết định đến cư ngụ tại Ayabe trong ngôi đền của giáo phái Omotokyo để học hỏi với sự hướng dẫn của ngài Deguchi Onisaburo.

Omotokyo là một giáo phái thuộc Thần đạo được bà Deguchi Nao sáng lập. Sau khi tiếp nhận được những mặc khải thần linh, giáo phái đã phát triển mạnh khi người rể của bà là Ueda Kitasabuno (sau đổi tên thành Deguchi Onisaburo) trở thành vị thủ lĩnh. Đối với Omotokyo, theo như lời nhận định của giáo sư Jean Herbert thì “Thượng đế là tinh thần thấm nhuần toàn cõi vũ trụ và con người là người quản gia cai trị trời đất. Một khi con người đã hợp nhất được với Thượng đế  thì nó có được một quyền năng vô tận. Con người là đền thờ của Thượng đế và Thượng đế cũng là thành luỹ của con người. Con người và Thượng đế liên lập với nhau”.

Omotokyo truyền cho các tín đồ của mình tuân theo ba giới luật để có thể đến gần Thượng đế:

1. Hãy quan sát các hiện tượng thực của thiên nhiên và bạn sẽ suy nghiệm được bản thể của chân Thượng Đế.

2. Hãy quan sát sự tuần hoàn tuyệt hảo của vũ trụ và bạn sẽ suy nghiệm được năng lực của chân Thượng Đế.

3. Bạn hãy quan sát tâm trí của các sinh vật để nhận thức được linh hồn của chân Thượng Đế.

Phù Tang đệ nhất kiếm

Deguchi Onisaburo bị chính quyền nghi ngờ và đã nhiều lần bị tống ngục vì nhiều lý do, trong đó có lý do phạm thượng đối với Thiên Hoàng và vi phạm luật báo chí. Dù vậy, ông đã hoạt động một cách hăng say trong lĩnh vực xã hội cho những người già yếu, mồ côi, khốn cùng cũng như trong lĩnh vực chữ viết. Là một người chủ trương hoà bình, ông thành lập hiệp hội bảo vệ tình thương và tình huynh đệ thế giới vào năm 1925. Ông liên lạc với nhiều tôn giáo trên thế giới và góp phần sáng lập liên đoàn các tôn giáo thế giới.

Ngày 13/2/1924, mặc dù vẫn còn bị chỉ định cư trú do tội khi quân, ông đã lặng lẽ rời nước Nhật để qua Mông Cổ cùng với một số đệ tử, trong đó có Tổ sư Ueshiba Morihei. Họ nuôi mộng xây dựng một vương quốc của hoà bình tại Mông Cổ - nơi các đội quân của Trung Quốc và Nhật đang đánh nhau - bằng cách tạo ra một sự liên minh giữa hai phe đang xâm chiếm và dựa vào thế lực của các tôn giáo mới.

Họ thất bại trong sự cố gắng của mình và bị người Trung Quốc bắt giam. Sau nhiều tháng tù đày và hơn một lần thoát chết trong gang tấc, họ bị giải giao về cho chính quyền Nhật. Khi được đưa về Nhật Bản, một đám đông vĩ đại đã đến hoan nghênh khi họ đặt chân lên cảng Moji vào cuối tháng 6/1925.

Trở lại Ayabe, Tổ sư Ueshiba Morihei càng nỗ lực nhiều hơn trong việc nghiên cứu về võ đạo và sống một cuộc sống khắc khổ. Chính vào thời điểm này, người tiếp một sĩ quan hải quân vốn là một võ sư Kendo (kiếm đạo) đến thăm, vì được nghe danh của ngài. Trong câu chuyện trao đổi, do bất đồng ý kiến về một số điểm, vị khách đề nghị Tổ sư Ueshiba Morihei tỉ thí. Tổ sư trao cho viên sĩ quan một thanh kiếm gỗ và nói với ông ta là ngài không cần kiếm. Viên sĩ quan liên tiếp tấn công, nhưng vẫn không đụng được ngài. Thấm mệt, ông ta dừng tay và Tổ sư giải thích cho ông là ngài cảm nhận trước những đòn tấn công ngay trước khi ông động thủ. Ngài thấy một loé sáng thoáng chốc trước khi thanh kiếm chạm vào người, nhờ vậy ngài có thể tránh né một cách dễ dàng. Ngài đã có những kinh nghiệm tương tự tại Trung Hoa. Đặc biệt một hôm, một binh lính Trung Hoa bắn ngài và bỗng chốc bị ngạc nhiên không mấy thích thú thấy ngài đang đứng sau lưng mình, ngay sau khi anh ta vừa bóp cò súng.

Ít lâu sau cuộc tỉ thí với viên sĩ quan Hải quân, Tổ sư Ueshiba Morihei ra sau vườn đến bờ suối để rửa mặt. Chính vào lúc đó người đã được giác ngộ. Một cảm nhận đột ngột khiến ngài không thể chủ động được và nhận thấy thân mình bỗng trở nên thanh khiết. Đồng thời ngài cảm nhận trời đất bắt đầu rung chuyển. Từ dưới đất như có một nguồn ánh sáng óng ánh vàng toả ra, khi chạm vào thân thể ngài thì nó biến đổi và tự thân toát ra một hào quang uy nghi. Ngài nghe tiếng chim kêu và tự thấy mình linh cảm được những bí mật của đấng tạo hoá.


Chính vào lúc đó ngài hiểu được cội nguồn của võ đạo chân chính là tình yêu và tinh thần, chân võ đạo là không nhằm chiến thắng đối phương bằng sức mạnh mà giữ được bình an của thế giới, cảm nhận và giúp phát triển mọi loài, mọi vật. Ngài hiểu là việc luyện tập sẽ đưa con người đến chỗ sung mãn đó, đến tình trạng ân sủng, trong đó con ngưởi cảm nhận được sự hoà hợp của thế giới vật chất và thế giới tinh thần.

Nếu sự tham gia tinh thần hiện hữu trong tất cả các môn võ thuật Nhật Bản thì trong thực tế chưa hề có người nào đào sâu nó đến độ bao gồm các tình thương nhân loại như mục đích của chân võ đạo. Tình thương thì không đố kỵ, tình thương không có thù địch. Đó là lý do khiến Tổ sư Ueshiba Morihei quyết định gọi võ đạo của ngài là Aikido.

“Môn võ đạo lý tưởng”: Aikido (lời của Tổ sư Judo)

Từ năm 1926, tên tuổi của Tổ sư Ueshiba Morihei được nhiều người biết đến và nhiều võ đạo gia lừng danh cũng như những nhân vật chính trị, quân sự đều đến tham kiến ngài.

Năm 1927, theo lời mời của đô đốc Takeshita (12) Tổ sư Ueshiba Morihei lên Tokyo và bắt đầu dạy cho các sĩ quan cao cấp và các nhà quí tộc. Ngài cũng tổ chức các lớp huấn luyện đặc biệt 21 ngày cho các sĩ quan của đội cận vệ Hoàng gia mà phần lớn đều mang tối thiểu ngũ đẳng trong các môn Judo và Kendo.

Ngài còn dạy ở nhiều nơi khác tại Tokyo. Sau đó, ngài được Hoàng tử Shimazu dành một phòng lớn để làm đạo đường. Chẳng bao lâu, căn phòng trở nên quá chật hẹp và sau nhiều cố gắng, ngài thiết lập tại Wakamatsu một đạo đường hoàn toàn mới mang tên Kobokan.

Chính tại đây, một hôm vị sáng lập môn phái Judo - Tổ sư Kano Jigoro đến thăm ngài vì được nghe danh môn phái mới của ngài. Khi nhìn Tổ sư Ueshiba Morihei thi triển đòn thế Aikido ở trên sân, đại sư Kano Jigoro đã nói: “Đây chính là môn võ đạo lý tưởng”. Ngay ngày hôm sau, ngài phái các đại đệ tử đến Kobukan để học Aikido.

Vào dạo đó, việc thâu nhận đệ tử rất khắc khe, việc luyện tập rất kham khổ, đến độ người ta đã từng mệnh danh nơi đó là “địa ngục trần gian”.


 
Trong những năm chiến tranh, đạo đường chỉ hoạt động cầm chừng và phần lớn là do võ sư Ueshiba Kisshomaru (con trai Tổ sư) phụ trách huấn luyện. Về phần mình, Tổ sư Ueshiba Morihei lui về ở Iwama cách Tokyo 120 km, nơi hiện nay có ngôi đền Aikido.

Vào năm 1946, người Mỹ cấm mọi việc luyện tập võ thuật trên khắp nước Nhật và đạo đường tại Tokyo được dùng làm chỗ tạm trú cho những gia đình chiến nạn. Cho đến năm 1948, trụ sở đó được gọi là Hombu Dojo (Bản bộ đạo trường). Aikido là môn võ đầu tiên được phép hoạt động trên đất Phù Tang nhờ ở tinh thần hoà hiếu của nó.


 
 
Ngày 09/02/1948, tổ chức Kobukai trở thành Aikikai và được bộ giáo dục công nhận như là một hội công ích. Từ đó, số võ sinh không ngừng gia tăng và một số võ sư Aikido hiện nay từ bát đẳng trở lên đã bắt đầu công việc luyện tập của họ ở đây. Vào những năm 50, Tổ sư Ueshiba Morihei - sắp bước vào tuổi thất tuần - đã nhường công việc giảng dạy lại cho con và các cao đồ của mình phụ trách. Trong số họ, có nhiều người lên đường ra ngoại quốc và truyền bá Aikido trên toàn thế giới.

Khi Tổ sư đại hoàn nguyên vào ngày 26/04/1969 thì Hombu dojo là một toà nhà ba tầng lớn và môn Aikido được hàng trăm ngàn người theo học ở khắp năm châu.

Tổ sư có bốn người con, một gái và ba trai. Hai người con trai đầu mất lúc còn nhỏ và người con trai còn lại là vị đạo chủ kế tục Tổ sư. Hiện nay người lãnh đạo Trung tâm Aikido thế giới là võ sư Ueshiba Moriteru (cháu nội Tổ sư).

Từ dạo đó, ngôi nhà của Aikikai lại được nâng cao lên hai tầng và ngoài 5 lớp luyện tập thường xuyên mỗi ngày còn có những lớp dành cho các môn sinh hoặc các nhóm đặc biệt. Từ 6 giờ sáng đến 8 giờ tối, hàng trăm người đến tập tại Đạo đường Trung ương để đi theo con đường kỳ diệu mà Tổ sư Ueshiba Morihei đã vạch ra.
 

 Chú thích:
(1) Tanabe: một thành phố cảng ở quận Wakayama trước thuộc tỉnh Kii.
(2) Sumo: môn vật cổ truyền kỳ cựu của Nhật.
(3) Soroban: một loại bàn toán của Nhật, tương tự bàn toán Trung Hoa.
(4) Shokai: Thương hội, công ty thương mại.
(5) Ken jutsu: kiếm thuật.
(6) Shinkage: “tấm ảnh”, một môn phái võ thuật lâu đời của Nhật.
(7) Sakai: một thị trấn lớn gần thành phố Osaka.
(8) Yagyu: tên của một gia tộc Samourai lừng danh và là tên của một môn phái võ thuật Nhật.
(9) Ju ken jutsu: phương pháp đánh lưỡi lê.
(10) Heitai no kami sama: vua của các chiến binh.
(11) Daito ryu: Đại đông lưu, môn phái Ju jutsu cổ. Hiện do Takeda Tokimune làm  đạo chủ.
(12) Takeshita Isamu (1869-1949): Thuỷ sư đô đốc, nhà ngoại giao, nhà nghiên cứu võ học. Ông đã ghi lại hàng trăm trang các chi tiết những lời dạy của Tổ sư Ueshiba Morihei trong việc thành lập đạo đường đầu tiên tại Tokyo và dàn xếp cho cuộc biểu diễn rất đặc biệt của Tổ sư trong cấm thành trước mặt Hoàng gia Nhật.

Kỹ Thuật té ngã trong Judo

Judo là một môn võ cá nhân, nghĩa là ngay cả trong các giải đồng đội cũng do từng cá nhân trong đội lần lượt lên đấu, chứ không có a la xô mười mấy người nhào vô... loạn đả. Nhưng trái với tính chất cá nhân, bạn không bao giờ có thể tập Judo một mình mà tiến bộ được (vô đòn "gió" hoặc ôm hình nộm đánh té chỉ là một phần nhỏ trong việc tập luyện Judo, chỉ giúp cho kỹ thuật của bạn hoàn thiện hơn thôi). Tập Judo là phải có người cùng luyện tập với mình. Việc thành thạo các kỹ thuật té (Ukemi Waza) trong Judo trước tiên là vì... an toàn của chính bản thân (khi bạn đấu, chắc chắn không ai có thể tự tin nói mình là "Độc cô cầu bại" được, trong thể thao nói chung và Judo nói riêng, có đấu thì phải có thua, và trong Judo, thua đồng nghĩa với... té , mà nếu không té được là hơi phiền cho các... bác sĩ đó!) và tiếp đến, như cô nói, có té giỏi mới đánh giỏi được!

Xét về khía cạnh tâm lý, đừng quên trong Judo tiến bộ thường là "song phương", mình đánh thì bạn té và ngược lại, khi bạn đánh, mình cũng phải té cho bạn. Nếu bạn là một Uke tốt, bạn té "đàng hoàng", giúp cho người tập chung cảm nhận được hoàn toàn đòn đánh của mình thì khi đến lượt bạn ra đòn, với tâm lý thoải mái vì đã "hoàn thành nhiệm vụ", bạn có thể đánh hết sức mà không bị "dằn vặt". Mặt khác, khi làm Uke lâu ngày, bạn không chỉ cảm nhận được đòn đánh dùm Tori để giúp Tori đánh tốt hơn mà còn rút ra được kinh nghiệm cho chính mình. Khi Tori đánh sai chính bạn là người biết rõ nhất (te tua quá xá hông biết mới lạ!), nhưng nhờ vậy bạn sẽ nhớ lâu hơn điểm sai của Tori để tránh không bước vào "vết xe đổ".
Tiếp đến, khi bạn tự tin là bạn té ngon lành nghĩa là bạn... không sợ thua trong khi tập song đấu (thua thì có gì nghiêm trọng lắm đâu, té là cùng!). Với tinh thần này, Judo của bạn sẽ thiên về hướng tấn công chứ không chăm chăm thủ vì sợ thua. Điều này cực kỳ quan trọng, vì có tấn công nhiều bạn mới kiểm nghiệm được tính thực chiến của các kỹ thuật đã học và dần dần "định hướng" được một lối đánh thích hợp cho cá nhân mình. Một sensei người Nhật có nói: "Việc quan trọng nhất khi tấn công 1001 lần Osoto Gari là đánh được người ta té ở lần thứ 1001 chứ không phải việc bị té suốt... 1000 lần trước đó!" Mà muốn 1000 lần té đó trở nên... không quan trọng thì nhất thiết là bạn phải... té giỏi.

Mae Ukemi


Mae Ukemi nghĩa là (Ukemi) phía trước (Mae), được áp dụng khi đang đi mà vấp té về phía trước (bị "bạn" nào buồn buồn thò chân ra ngáng chẳng hạn :p: ). Trong trường hợp té về phía trước, còn một kiểu té lăn tròn nữa, Mi' sẽ nói cụ thể ở phần sau.
Như mọi kỹ thuật té trong Judo, việc đập mạnh tay khi "tiếp đất" rất quan trọng vì làm tăng diện tích tiếp xúc và giảm chấn động.

* Mới bắt đầu tập thì quì (để không phải té quá cao) rồi đổ người về phía trước, đập tay. Chú ý là đập bằng cả cánh tay chứ không phải chỉ phần bàn tay (nếu chỉ đập phần bàn tay, gọi cách khác là chỏi tay, rất có nguy cơ bị bong gân cổ tay).



* Khi quen dần thì ngồi xổm để tập






* Và sau cùng là tập té Mae Ukemi khi đang đứng










 

Có trước thì phải có... sau :o: . Ushiro Ukemi nghĩa là té phía sau (Ushiro). Trong luyện tập thì cách này hữu dụng cho Uke khi Tori đánh các đòn có hướng làm mất thăng bằng về phía sau như Ouchi Gari, Kouchi Gari... Trong thực tế thì áp dụng khi đang đi mà đạp nhằm... vỏ chuối :o: .

* Khái quát: 2 tay để phía trước, từ từ ngồi xuống, ngả người về phía sau, đập mạnh tay. Chú ý khi đập tay là đập cả cánh tay, theo chiều dọc của cơ thể và khi té xuống phải ngóc đầu lên, tuyệt đối không để đầu chạm đất. Để dễ nhớ, bạn hãy thử làm sao cho cằm càng gần phần cổ càng tốt và mắt nhìn về hướng thắt đai.

Ushiro Ukemi






* Mới tập thì nằm dưới đất, ngóc đầu lên và tập đập tay, tiếp đến là ngồi duỗi chân ra rồi từ từ ngả người về phía sau.







* Sau khi đã quen rồi thì chuyển sang tư thế ngồi xổm





* Cuối cùng là tập té phía sau khi đang đứng



 
 
Yoko Ukemi


Yoko Ukemi nghĩa là té nghiêng về một bên (Yoko). Yoko Ukemi chia ra làm 2 loại: Migi Yoko Ukemi (té nghiêng bên phải) và Hidari Yoko Ukemi (té nghiêng bên trái).

* Khái quát: Nếu té bên phải, trước tiên bạn bước chéo chân phải lên phía trước chân trái rồi ngả người về bên phải, khi tiếp đất chú ý đập tay (đập cả cánh tay xuôi theo chiều cơ thể) và ngóc đầu lên không để đầu chạm đất. Té bên trái thì cũng các bước như thế nhưng thực hiện ở bên trái.
Yoko Ukemi thường được sừ dụng nhiều nhất khi Tori thực hiện các đòn quét chân (De Ashi Barai, Okuri Ashi Barai...) hoặc một số đòn dạng Yoko Sutemi Waza (đòn hy sinh, Tori té nghiêng) như Yoko Gake... (hihi, đòn Yoko Gake té thế nào thì cứ hỏi bạn kiện-tướng-Uke, bạn ấy chắc chắn còn nhiều ấn tượng khó phai với đòn này đấy :d: ).






* Khi mới tập thì ngồi xổm cho nó... chắc ăn :o:

Migi Yoko Ukemi


Hidari Yoko Ukemi




* Thuần thục rồi thì tập té khi đứng:

Migi Yoko Ukemi








Hidari Yoko Ukemi



 
Zempo Kaiten Ukemi


Zempo Kaiten Ukemi (Ukemi) lăn tròn (Kaiten) về phía trước (trình độ cao hơn thì bay (Zempo) rồi mới lăn tròn). Zempo Kaiten Ukemi còn một kiểu gọi khác, như ở Minh Khai, là  (té lăn tròn phía trước bên trái) và (té lăn tròn phía trước bên phải).

Zempo Kaiten Ukemi có 2 cách kết thúc: cách thứ 1, té xong thì giữ nguyên người dưới đất. Cách thứ 2, té xong thì dùng đà để đứng dậy luôn, cách này được áp dụng chủ yếu trong Kata (khi làm Uke cho các đòn dạng Sutemi như Tomoe Nage, Sumi Gaeshi, Yoko Guruma, Uki Waza).

Zempo Kaiten Ukemi còn một biến thể (của cách thứ 1) là té không chống tay (dân gian hơn thì gọi là té nổ), là cách tập hiệu quả để sau đó áp dụng khi té cho hầu hết các đòn có hướng đánh về phía trước của Judo (như Ippon Seoi Nage, Uchi Mata, Morote Seoi Nage...).

Minh hoạ về áp dụng của Zempo Kaiten Ukemi:

Cách thứ 1




Cách thứ 2




* Khái quát: Té bên phải thì tuỳ trình độ mà bước chân phải lên hay quì đầu gối phải xuống, sau đó đặt cạnh bàn tay phải xuống đất sao cho cánh tay thành hình cung tròn (điều này quan trọng vì muốn lăn được thì phần cánh tay phải tròn, nếu... gấp khúc thì có nguy cơ cắm vai xuống đất gây chấn thương), bàn tay trái đặt cạnh tay phải, bạn nào mới tập, để tránh nguy cơ bị... cắm đầu xuống thảm thì quay đầu nhìn sang trái (trong trường hợp té bên phải và ngược lại khi té bên trái), tiếp đó dùng chân trái đẩy mạnh làm đà để lăn qua. Chú ý là khi tiếp đất phải đập cả phần cánh tay xuôi theo chiều cơ thể và hơi nghiêng người qua một bên, tuyệt đối tránh không để đập phần lưng xuống đất. (Thử tưởng tượng bạn bị quăng mạnh từ trên cao xuống mà để cho mọi chấn động dồn hết vào lưng thì chỉ cần tập vài bữa là rủ nhau đăng ký phòng trong bệnh viện hết. :i: ) Té bên trái thì làm theo hướng ngược lại.





Bạn nào thích "bay lượn" một tí thì như thế này:




* Việc đầu tiên khi bắt đầu tập là tập đập tay, cho tay chân vào đúng... vị trí chiến lược




* Tiếp đến là tập té từ tư thế quì

Hidari Mae Ukemi



Migi Mae Ukemi




* Sau cùng là té khi đang đứng và té xong thì "tiện thể" theo đà bật dậy luôn (Cách té thứ 2 của Zempo Kaiten Ukemi)

Hidari Mae Ukemi



Migi Mae Ukemi

Phòng bệnh mất dần trí nhớ

Nguyễn Minh Tâm dịch theo S.F Examiner
6 bước đơn giản đgiữ đầu c minh mẫn
Phúc trình mới nhất của chính phủ cho biết rằng thuốc bổ (supplements), hay thuốc chữa bệnh không giúp gì được cả trong việc ngăn ngừa bệnh Alzheimer, tức là bệnh mất dần trí nhớ, bệnh lú lẫn. Đây là căn bệnh nhiều người già bị vướng phải, giống như trường hợp của cựu Tổng thống Ronald Reagan.
Nhưng nếu chúng ta đọc thật kỹ phúc trình của chính phủ, để ý đến những dòng chữ nhỏ, chúng ta sẽ tìm thấy được nhiều thông tín hữu ích trong việc gìn giữ những tế bào chất xám trong đầu không bị lão hoá.
Sự thực được báo cáo này đưa ra cho chúng ta thấy là không có hồ sơ chứng liệu nào cho biết thuốc chữa bệnh, hay thuốc bổ đem lại ích lợi cho việc chống lại căn bệnh quái ác này. Nhưng ngược lại, phúc trình đó lại đưa ra những bằng chứng rõ ràng là nếu chúng ta chịu khó tập thể dục, tỏ ra năng động, ăn uống lành mạnh, giữ cho áp huyết thấp để máu có thể đưa lên não dễ dàng, chúng ta sẽ ngăn ngừa được bệnh mất trí nhớ.
Bản phúc trình không gỉai thích vì sao. Nhưng chúng tôi sẽ phân tích cho độc giả biết rõ: Không phải mọi hiện tượng mất dần trí nhớ - dementia - đều trở thành bệnh Alzheimer. Nhưng đầu óc của chúng ta trở nên cùn lụt khi lớn tuổi là do ảnh hưởng gộp của nhiều yếu tố khác nhau. Yếu tố chính là óc của chúng ta không nhận đủ máu đưa lên đầu, vì mạch máu bị tắc nghẽn, hay bị hở, gọi chung là vascular dementia..Trong cả hai trường hợp đều khiến cho trí nhớ của chúng ta trở nên yếu kém, sự suy nghĩ của chúng ta trở nên loạng quạng (fuzzy), hậu quả bởi việc óc của chúng ta không nhận đủ dưỡng khí (oxygen) và đường (blood sugar).
Nhiều bệnh nhân của căn bệnh Alzheimer không ít thì nhiều đều vướng phải tình trạng vascular dementia. Những trở ngại khi suy nghĩ mà các cụ già gặp phải phần lớn vì máu không đưa lên đầu dễ dàng. Chúng ta có thể ngăn ngừa những rắc rối này, hay sửa chữa những trục trặc đó bằng cách giữ cho mạch máu dẫn máu lưu thông lên não bộ đuợc thông tuông dễ dàng.
Phòng bệnh là biện pháp chúng ta nên làm sớm. Điều này có nghĩa là chúng ta cần làm những gì để giúp máu bơm lên đầu dễ dàng.
Mỗi ngày đi bộ, ít nhất 10,000 bước đi: Hoạt động thể lực giúp máu chạy đều lên óc. Phân bón tự nhiên cho não bộ chính là máu đưa lên đầu. Mỗi ngày ráng bước đi khoảng 10,000 buớc chân, bằng cách này hay cách khác để máu từ tim đi lên đầu. Các nghiên cứu khoa học cho thấy các cụ già trên 65 tuổi chịu khó tập thể dục ít nhất ba lần một tuần tránh được một phần ba rủi ro vướng bệnh Alzheimer. Bạn có thể làm một trong những hoạt động sau đây tùy theo sở thích của mình: đi bộ, làm vườn, hay khiêu vũ.
Ăn thực đơn có nhiều rau và hoa quả như người Hy Lạp: Rau tươi, trái cây tươi là thức ăn chính cho bộ óc. Trong hoa quả và rau có chứa chất “flovonoids” giúp tăng cường sức mạnh cho hệ thống ngăn ngừa độc tố. Trong một cuộc nghiên cứu nhóm đàn ông đàn bà thích ăn rau quả tươi, uống trà, cà phê, hay rượu nho, có nhiều chất flovonoids . Họ thường có não bộ hoạt động tốt hơn người không dùng rau quả tươi. Và sự suy sụp cuả não bộ tránh được tới 10 năm. Ngoài ra, nhiều cuộc nghiên cứu khác cho thấy mỗi tuần uống vài lần nước ép từ rau quả, sẽ giúp ngừa được 76% bệnh lú lẫn, hay mỗi ngày uống khoảng 900mg thuốc bổ để thay thế rau, sẽ giúp tăng sự bén nhậy của trí óc, và giúp trẻ thêm được khoảng 3,5 tuổi.
Hay ăn thực đơn của dân Địa Trung Hải: ăn uống hằng ngày giống thực đơn của người Ý và người Hy Lạp, gồm có rau tươi, hạt đậu (grain), dầu olive, cá, và các loại hạt (nuts) sẽ giúp áp huyết giữ ở mức tốt.
Ăn theo kiểu dân Điạ Trung Hải sẽ giúp đầu óc minh mẫn sáng suốt tránh được bệnh Alzheimer khoảng 48%.
Cương quyết từ bỏ những thói hư, tật xấu như hút thuốc lá, và nghiện rượu. Thuốc lá chứa độc tố rất hại cho não bộ, vì thế người hút thuốc lá có nhiều rủi ro bị Alzheimer hơn người không hút thuốc đến 80%.
Đừng uống rượu mạnh quá độ. Đa số những người nghiện rượu đều vướng vào bệnh Alzheimer. Đàn bà chỉ nên uống rượu tối đa mỗi ngày một ly thôi. Đàn ông đuợc uống tới hai ly. Uống một chút rượu có lợi cho việc gìn giữ tế bào chất xám. Nhưng uống nhiều quá lại gây nguy hại cho đầu óc, 25% người bị bệnh mất trí nhớ dính líu đến nghiện rượu.
Ráng duy trì huyết áp ổn định ở mức thấp: Huyết áp cao có thể làm cho mạch máu trên đầu bị hở hay đứt. Chính vì vậy, các chuyên gia y tế nói rằng huyết áp cao là nguyên nhân của 50% trường hợp gây ra lú lẫn, hư trí nhớ. Chúng ta hãy ráng duy trì huyết áp ở mức thấp - lý tưởng là 115/75 - bằng cách ăn uống lành mạnh, tập thể dục hàng ngày, giữ trọng lượng thân thể thấp, đừng để lên cân, béo mập. Nên theo dõi mức đường trong máu. Bệnh tiểu đường, hay thậm chí sắp sửa bị tiểu đường cũng là dấu hiệu báo trước có thể bị hở mạch máu đầu, gây ra bệnh lú lẫn. Bệnh tiểu đường dễ làm các mạch máu nhỏ bị hở, và chảy máu trong não.
Tránh đừng để bụng phệ: Vòng bụng ở tuổi trung niên to báo hiệu trước có thể bị vướng bệnh lú lẫn khi về già. Cuộc nghiên cứu theo dõi 6,000 người đưa ra kết quả cho thấy cái bụng phệ rất hại cho động mạch chính dẫn máu về tim, và máu lên đầu. Vì thế cho nên chúng ta nên cố gắng duy trì vòng bụng dưới 35 inches cho các bà, và dưới 40 inches cho các ông.
Chỉ có một bộ phận nên gìn giữ cho to lớn. Đó chính là não bộ của bạn.
Bài viết của hai bác sĩ Mehmet Oz và Michael Roizen


Nguyễn Minh Tâm dịch

vovinam

fgh

Lịch sử Taekwondo

Võ thuật ở Hàn Quốc có lịch sử lâu đời bắt đầu từ thời cổ đại. Taekwondo môn võ thuật của Hàn Quốc có thể truy nguyên thấy bắt nguồn từ triều đại Hoguryo năm 37 trước công nguyên. Những bức tranh vẽ trên tường cảnh những người đàn ông đang tập luyện Taekwondo được tìm thấy nơi tàn tích của mồ mả hoàng gia Muyongchong và Kakchu-chong xây cất trong khoảng từ năm thứ 3 đến năm 427 sau công nguyên.

Trên trần của Muyong-chong có bức tranh mô tả cảnh 2 người đàn ông đối diện nhau trong một tư thế tập luyện Taekwondo. Khởi đầu, môn võ thuật này có tên là Subakhi.

Taekwondo cũng được tập luyện suốt triều đại Silla một vương quốc được thành lập ở đông nam Korea vào khoảng 20 năm trước triều đại Koguryo ở phía bắc. Tại Kyongju, kinh đô trước đây của Silla, hình 2 vị Kim Cang trừ ma diệt quỷ bảo vệ phật giáo trong tư thế tấn Taekwondo được khắc trên bức tường trong hang động Sokkuram ở đền Pulkuk-sa.

Con cháu của giới quý tộc ở Silla đã được tuyển tập trung thành nhóm được gọi là Hwarangdo một tổ chức quân đội, giáo dục và xã hội. Trong thời gian này tổ chức Hwarangdo đã có ảnh hưởng rất lớn và làm phong phú thêm cho nền văn hoá và võ thuật Korea.

Nhiều tài liệu cho thấy tổ chức này không chỉ xem việc tập luyện Taekwondo như là phần thiết yếu trong huấn luyện quân đội và tăng cường thể chất mà còn phát triển Taekwondo như là một hoạt động giải trí. Các khám phá nghệ thuật cổ như các bức tranh trên tường ở những ngôi mộ của triều đại Kyoguryo, các hình ảnh khắc trên đá ở những đền, chùa được xây dựng trong khoảng thời gian của triều đại Silla và nhiều tài liệu cho thấy các thế tấn, kỹ thuật và hình dáng rất giống với các thế tấn và hình dáng của Taekwondo ngày nay.

Trong lịch sử của Triều Tiên (918-1392), Taekwondo, lúc bấy giờ được gọi là Subakhi, được tập luyện không chỉ được xem như là một kỹ năng để tăng cường sức khoẻ mà nó còn được khuyến khích tập luyện như một một võ thuật có giá trị cao.

Có ít nhất là hai tài liệu được ghi chép trong thời gian đó cho thấy rằng Subakhi đã trở nên rất phổ biến đến nỗi nó được đem biểu diễn cho hoàng đế xem. Điều này có nghĩa là Subakhi đã được tập luyện như một môn thể thao có tổ chức cho khán giả xem và các chuyên gia cho rằng vào thời gian đó người Hàn Quốc rất thích khía cạnh thi đấu của võ thuật.

Thời gian của triều đại Chosun có một quyển sách phát hành về dạy Taekwondo như một môn võ thuật. Nó đã trở thành phổ biến hơn với công chúng, ngược lại với triều đại Koryo trước đây, Taekwondo chỉ độc quyền cho quân đội.

Một tài liệu lịch sử viết người dân của tỉnh Chungchong và Cholla đã tụ tập ở một làng tổ chức thi đấu Subakhi. Tài liệu này cho thấy Subakhi đóng một vai trò quan trọng trong hoạt động thể thao quần chúng.

Hơn thế nữa, dân chúng muốn tham gia vào quân đội của hoàng gia rất háo hức tập luyện Subakhi bởi vì nó là môn kiểm tra chính trong chương trình tuyển chọn.

Đặc biệt, Vua Chonjo (1777-1800) phát hành một bộ sách giáo khoa về phong tục và tập quán Hàn Quốc có tựa đề là Chaemulbo, trong đó nói rằng Subakhi được gọi là “Taekkyon”, tên trước khi được gọi là Taekwondo.

Các chuyên gia cho rằng vấn đề quan trọng ở đây không chỉ là tên được thay đổi mà cả kỹ thuật cũng thay đổi một cách đột ngột. Trong giai đoạn lịch sử Subakhi trước đó, kỹ thuật tay được nhấn mạnh.

Các tài liệu lịch sử có liên quan đến Taekkyon được xuất bản vào khoảng cuối thế kỷ 19 ghi lại rằng nó là một nghệ thuật được đặt phần lớn trên các kỹ thuật chân. Lúc bấy giờ, Taekkyon thật sự là một môn thi đấu có hệ thống tập trung vào kỹ thuật chân và chiến thuật.

Vì vậy thật là rõ ràng trong suốt thời gian triều đại Chonsun, Subakhi đã trở thành một môn thể thao quốc gia quan trọng và thu hút sự chú ý của cả hoàng gia lẫn công chúng.

Vào cuối triều đại Chonsun, Subakhi bắt đầu suy tàn vì sự bỏ mặc của hoàng gia cũng như sự ăn sâu của đạo Khổng đề cao giá trị văn chương. Subahi chỉ tồn tại như một hoạt động giải trí của người dân thường.

Vào cuối thế kỷ 19, quân đội Hàn Quốc suy yếu, người Nhật đô hộ đất nước. Sự áp bức của đế quốc Nhật đối với dân Hàn Quốc rất hà khắc và việc tập luyện võ thuật được xem nguồn gốc của sự nổi loạn bị cấm đoán.

Tuy nhiên, các tổ chức kháng Nhật sử dụng Taekwondo như một phương pháp huấn luyện tinh thần và thể chất.

Sau giải phóng vào 15/8/1945, những người có nguyện vọng khôi phục lại môn võ thuật cổ truyền Taekwondo bắt đầu dạy trở lại.

Cuối cùng vào tháng 9/1961, Hội Taekwondo Hàn Quốc được thành lập. Tháng 10/ 1963, Taekwondo đã trở thành môn thi đấu chính thức lần đầu tiên tại Đại hội Thể Thao Quốc Gia. Vào những 1960, huấn luyện viên Hàn quốc bắt đầu ra nước ngoài phổ biến Taekwondo. Đây là bước ngoặc trong lịch sử phát triển của môn võ này.

Taekwondo được xem như môn thể thao thế giới tại Giải Vô địch Thế giới lần 1 được tổ chức tại Seoul 1973 với 19 quốc gia tham dự.

Tại cuộc họp ở Seoul được tổ chức bên lề của giải Vô địch Taekwondo Thế giới lần 1, đại diện của các quốc gia tham dự đã thành lập Liên đoàn TKD Thế giới. Từ đó, giải Vô địch Taekwondo Thế giới được tổ chức 2 năm một lần.

Hiện nay Liên đoàn Taekwondo Thế giới có 166 quốc gia thành viên toàn thế giới, với khoảng 50.000.0000 người tập luyện. IOC đã công nhận Taekwondo là môn thể thao quốc tế tại đại hội lần thứ 83 năm 1980, Taekwondo được công nhận là môn thi đấu giành huy chương tại Thế vận hội Olympic Sydney 2000 và 2004 sắp tới.

Taekwondo được người dân Sài Gòn biết đến rất sớm khi đích thân võ sư Choi Hong Hi hướng dẫn một đoàn võ sư Triều Tiên sang biểu diễn tại sân Tao Đàn vào năm 1959.

Ba năm sau đó, khoá đào tạo huấn luyện viên Taekwondo đầu tiên cho người Việt Nam được tổ chức tại trường Vũ Thuật và Thể Dục Quân Sự Thủ Đức, từ đầu tháng 12/1962 đến ngày 16/11/1963 với sự tham gia của trên 70 học viên do võ sư Nam Tae Hi (đai đen 7 đẳng) và ba võ sư 5 đẳng hướng dẫn. Trải qua 6 tháng tập luyện lớp còn lại 56 học viên và đến khi kết thúc khoá học, chỉ có 9 người đạt đai đen nhất đẳng, trong đó có võ sư Khúc Văn Bón, Nguyễn Long Vân…

Theo kế hoạch, các khoá 2, 3… đào tạo huấn luyện viên tiếp tục khai giảng, nâng dần số huấn luyện viên lên đến trên 100 người. Với tinh thần khoa học, đại chúng và yêu cầu tổ chức một lớp tập khá đơn giản, đến đầu năm 1964, tại Sài Gòn (nay là thành phố Hồ Chí Minh) đã xuất hiện 5 võ đường Taekwondo là Judonam, Cộng Hòa, Lạc Long, Lê Văn Duyệt và Thủ Đức. Từ những bước đầu chập chững, phong trào luyện tập ngày càng lớn mạnh và đến tháng 2 năm 1966, Tổng cuộc Taekwondo miền Nam chính thức chào đời. Cũng trong năm này, Tổng cuộc đã tổ chức giải vô địch toàn miền Nam, và đến năm 1968, số người tập luyện Taekwondo ở miền Nam Việt Nam lên đến khoảng trăm ngàn. Chẳng những tăng nhanh về số lượng, chất lượng đào tạo cũng khá tốt. Ngay trong kỳ tranh tài quốc tế đầu tiên, đoàn Taekwondo miền Nam (6 nam – 2 nữ) đã giành được 7 huy chương vàng, 2 bạc, 3 đồng tại giải Vô dịch Châu Á lần thứ 1 (Hồng Kông, 26-28/9/1969). Đến giải Vô địch Châu Á lần thứ 2 (Malaysia, 9-22/3/1981), 8 võ sĩ Taekwondo miền Nam Việt Nam chiếm 4 huy chương vàng, 3 huy chương bạc, 2 huy chương đồng và 5 cúp bạc.

Sau ngày đất nước thống nhất, phong trào luyện tập Taekwondo tạm lắng. Đến năm 1977, một chương trình biểu diễn giới thiệu môn võ này tại Câu lạc bộ Thể dục Thể thao Phan Đình Phùng (Quận 3 – TP. Hồ Chí Minh) đã gây được ấn tượng tốt đẹp. Từ đó, Taekwondo dần dần khôi phục với nhiều điểm tập mở ra trong thành phố. Năm 1989, Hội Taekwondo thành phố Hồ Chí Minh hình thành và vào thời điểm này, hơn 20 tỉnh, thành trên toàn quốc có phong trào tập luyện. Để khôi phục được phong trào, nhiều võ sư Taekwondo của thành phố Hồ Chí Minh đã lặn lội đến các tỉnh, thành bạn để hổ trợ tập huấn, chấm thi… Những năm sau, các giải Trẻ, Cúp các Câu Lạc Bộ Mạnh, Vô Địch Toàn Quốc được tiến hành đều đặn với số lượng và chất lượng ngày càng tăng tiến. Nhằm trao đổi kinh nghiệm, học tập và tạo điều kiện cho các võ sĩ Việt Nam cọ xát quốc tế, từ năm 1962, Sở Thể Dục Thể Thao TP. Hồ Chí Minh còn tổ chức giải Taekwondo Quốc Tế hàng năm (nay là giải Taekwondo Quốc Tế Samsung). Đây là giải mà Hiệp Hội Taekwondo Châu Á đánh giá cao về số lượng các nước tham gia ngày càng đông, đạt chất lượng tốt về chuyên môn và tổ chức. Vài năm gần đây, thủ đô Hà Nội cũng tổ chức một giải quốc tế như trên. Là một trong những môn mũi nhọn của thể thao Việt Nam, Taekwondo được ngành Thể dục Thể thao các cấp quan tâm và đầu tư. Rất nhiều tỉnh, thành đã đưa bộ môn vào trường Nghiệp vụ. Riêng đội tuyển quốc gia đều sang Hàn Quốc, Đài Loan tập huấn 1-2 lần/năm, tuyến trẻ của Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh cũng được dự các giải quốc tế và học hỏi ở nước ngoài. Song song đó, đội ngũ huấn luyện viên, trọng tài cũng được nâng cao trình độ, hiện nay Taekwondo Việt nam có khoảng 500 huấn luyện viên đã qua lớp bồi duỡng do Ủy Ban Olympic Quốc Tế (I.O.C.) tài trợ, gần 20 huấn luyện viên, trọng tài cấp quốc tế… Từ các thuận lợi trên, cộng với sự cố gắng ôn luyện của các võ sĩ dưới sự hướng dẫn của huấn luyện viên trưởng Trương Ngọc Để, Taekwondo Việt Nam đã giành được nhiều kết quả quan trọng trong các kỳ tranh tài quốc tế. Ngoài 11 chiếc huy chương vàng tại 5 kỳ Seagames (1991-1999), 7 huy chương vàng Đông Nam Á, Taekwondo Việt Nam còn chiếm được 2 huy chương vàng Asiad (Trần Quang Hạ – 1994, Hồ Nhất Thống – 1998), 1 huy chương vàng Châu Á (Trần Hiếu Ngân – 1998), 3 huy chương đồng Thế Giới (Trần Quang Hạ, Trần Thị Mỹ Linh, Hồ Nhất Thống), 2 nữ võ sĩ Nguyễn Thị Xuân Mai, Trần Hiếu Ngân đoạt được vé bay đến Olympic Sydney (9/2000) và VĐV Trần Hiếu Ngân đã xuất sắc giành được chiếc huy chương Bạc duy nhất cho đoàn thể thao Việt Nam tại Thế Vận Hội này. Song song đó, Taekwondo Việt Nam cũng được tín nhiệm đăng cai tổ chức giải Vô Địch Đông nam Á (1996), Vô Địch Châu Á (1998), Cúp Các Câu Lạc Bộ Quốc Tế Lần 3 (1999), Cúp Taekwondo Thế Giới (5/2001)…

Là thành viên của Liên Đoàn Thế Giới (WTF), đến tháng 12/1996, Liên Đoàn Taekwondo Việt Nam được thành lập. Từ đó đến nay, Liên đoàn ngày càng phát huy tác dụng của một tổ chức xã hội về thể thao, góp phần rất quan trọng vào việc củng cố và đưa phong trào, thành tích của Taekwondo Việt Nam trở thành một cường quốc của Châu Lục với khoảng 100 ngàn võ sinh thường xuyên tập luyện trên phạm vi toàn quốc, trong đó có nhiều đơn vị mạnh như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Bà Rịa-Vũng Tàu, Đồng Nai, Phú Yên, Đà Nẵng, Quân Đội…

Karate và Phật giáo trong nghệ thuật Trung Quốc

Những bức tượng Phật đôi khi đi cùng với những tượng các võ sĩ Karate, được thể hiện qua tư thế đứng hoặc ngồi bên cạnh đó - chúng luôn miêu tả được một cách rất sinh động qua thế đứng quan trọng trong Karate hoặc vị trí cánh tay .
Một trong số thế thủ thường thì bên phải tượng Phật là những bức tượng mềm mại và thư giãn, trong khi bên trái tượng Phật là những bức tượng cứng cáp hay đang tập trung cao độ - Sau lời chỉ dẫn Karate của Bồ Đề Đạt Ma về Đạo Thiền trong Phật Giáo, những nhà sư (tu sĩ) nghiên cứu khí công Trung Quốc cũng đã nghiên cứu thêm cả Karate - Bồ Đề Đạt Ma tin rằng việc tập luyện cơ thể và trí óc cùng một lúc cần thiết hơn cả việc tập luyện một cách nghiêm ngặt về tâm hồn hay thể xác.
Rất ít sách viết riêng về Karate mà nó thường được gắn liền với (Zen) của Đạo Phật. Thực tế những gì được viết đều bị giử kín và Karate chỉ được dạy như là một phần huấn luyện khí công của Phật giáo, mặc dù tất cả các bức tượng và các bức tranh của giai đoạn này đã được gắn liền với khí công của Phật Giáo chứa đựng các yếu tố về Karate - Những hoạ sĩ của thời kỳ này đã miêu tả các đặc tính của khí công Phật Giáo cùng với những lời diễn tả và quan điểm về Karate - Chính tại điểm này đã nhận ra được điều quan trọng là những nguyên tắc về khí công trong Phật Giáo không phải là khí công duy nhất và đơn độc, mà nó đã được tập luyện nhiều năm trước đó, nó còn thể hiện trong các dạng của chủ nghĩa “TAO”, chủ nghĩa La Mã, chủ nghĩa thụ động (yên tĩnh), chủ nghĩa khoái lạc, và các tôn giáo bí hiểm khác hoặc những triết lý thuộc về quá khứ. Đạo Thiền được ưa chuộng nhất so với các đặc tính của tất cả những tôn giáo này, và đã được phát triển và được gọi là khí công (Zen) Phật Giáo.
Ở một số giai đoạn trong lịch sử Trung Quốc, Karate đã trở nên thông dụng (phổ biến) như là một trong những phương tiện để bảo vệ hơn là một phần của Phật Giáo. Khi điều này sảy ra cả Phật Giáo và Karate đều mất đi bản chất của mình, khi những người tu hành Phật Giáo nhận thấy là họ không cần phải bảo vệ một chút nào, bởi vì mọi người đều chấp nhận họ như là những người linh thiêng (thần thánh) họ dần dần không để ý đến việc tập luyện Karate nữa, cho dù việc tập luyện đó có một mục đích rất mật thiết gắn bó với Đạo của họ .

Cùng thời gian đó Đạo Thiền (Zen ) của Phật Giáo cũng đã được truyền dạy, không lâu hơn Phật Giáo Đạo Ấn hay Phật Giáo khí công của Trung Quốc, mặc dù cả hai đều có sự sửa đổi - Để đạt được sự mở mang đó đều phải thông qua sự tập trung cao độ mà được xem là phương cách dể chấp nhận nhất - những điều nầy nó lại nằm bên dưới thế giới triết học của Trung Quốc - Ở dạng này Đạo Thiền (Zen) của Phật Giáo đã được truyền dạy đến nhiều nước khác .
Karate và Đạo Thiền (Zen) :
Nhân tố mà tạo ra Karate có sự khác biệt với Đạo Thiền, đó là Đạo Thiền được tập luyện như là một tôn giáo - Karate sử dụng những nguyên lý của Đạo Thiền để giúp hoàn hảo các chuyển động tự vệ và sự phối hợp TRÍ ÓC và THÂN THỂ đã ảnh hưởng lớn tới môn nghệ thuật này - Những nguyên lý của Đạo Thiền (Zen) bản thân nó rất là đẹp khi được sử dụng trong Karate với một sự hình dung trong trí óc, tạo ra cho cơ thể hành động có hiệu quả và thành một thể đồng nhất tuyệt vời - Sự đồng nhất này hoạt động theo một cách mà chỉ định ra như là cơ thể và trí óc cùng “xứng đôi” với nhau trong một thời điểm - cơ thể và trí óc trở nên như một, hoạt động cùng nhau - Sự hoà hợp giữa tác động của cơ thể và trí óc đã đạt được thành công, Karate sẽ giúp đở bạn trong cuộc sống, đó là mang lại sự tập luyện cho bạn những gì bạn cần phải học.

 

Nguồn: Trưởng tràng suzucho karatedo : Bát đẳng Lê Văn Thạnh

Kỳ tích khí công

(nld)Trong cuộc thi môn khí công toàn quốc của Trung Quốc tại thành phố Mẫu Đơn Giang, tỉnh Hắc Long Giang tuần qua, võ sư Trương Ngọc Kiện đã lập kỷ lục phi thường
Theo Tân Hoa Xã, Trương đã vận dụng lực khí công nhai nát 2 bóng đèn điện và nuốt những mảnh bóng đèn trong 2 phút. Trả lời giới báo chí, võ sư này cho biết ông đã học khí công từ thời trẻ để tự vệ và đến nay đã rất thành thục môn võ đặc biệt này.
 
 


T.Tùng

các loại sp

jkgádkl;fgk; fg

Thứ Tư, 23 tháng 2, 2011

Giá cho Tháng 02/2011

Võ Phục VTO :
             banhang@vophucvto.tk
- Tel : 08 66 502 171 – Mb: 0983.469.681
- Y!M : vophucvto
- http://vophucvto.tk hoặc http://vtosports.tk

 + Sản xuất và cung cấp võ phục kaki các môn võ :
- Karatedo, Judo, Aikido ...: Giá bán (lẻ) từ : 100.000 đến 150.000 vnđ/bộ.
- Taekwondo (WTF): Giá bán (lẻ) từ : 100.000 đến 150.000 vnđ/bộ.
                Vải sọc : Giá bán (lẻ) từ : 180.000 đến 210.000 vnđ/bộ.
- Vovinam.: Giá bán (lẻ) từ : 128.000 đến 155.000 vnđ/bộ.
- Võ cổ truyền (vạt xéo): Giá bán (lẻ) từ : 133.000 đến 160.000 vnđ/bộ.
...
- Các loại đai: Giá bán (lẻ) từ : 20.000 đến 70.000 vnđ/cái.
- Các loại hiệu và bảng tên: Giá bán (lẻ) từ : 8.000 đến 10.000 vnđ/cái.
...
+ Các loại dụng cụ - bảo hộ cho tập luyện và thi đấu.
        Giá bán (lẻ) : vui lòng liên hệ.


          + Giảm giá đặc biệt cho Quí khách là các HLV và Cửa Hàng.
+ Giao hàng tận nơi tại TP HCM (SL trên 05 bộ).

VTO Rất hân hạnh được phục vụ!